PDA

View Full Version : Việt Nam cần một Luật chống kỳ thị và phân biệt đối xử



songchungvoi_HIV
31-08-2014, 16:08
Thứ 7, 30-08-2014 01:26:00 pm
Ngày 20 tháng 6 năm 2014, trong phiên kiểm định nhân quyền (UPR) lần thứ 2 tại Geneva, chính phủ Việt Nam chính thức chấp nhận 182 khuyến nghị trong tổng số 227 khuyến nghị của các nước trên thế giới.

Đặc biệt, Việt Nam chấp nhận một khuyến nghị liên quan đến việc “thông qua một luật chống lại phân biệt đối xử đảm bảo bình đẳng cho tất cả công dân, bất kể xu hướng tính dục và bản dạng giới” [kiến nghị 143.88 của Chile]. Đây chính là cơ sở để Việt Nam xây dựng một bộ luật về bình đẳng, chống mọi hình thức phân biệt đối xử dựa trên giới tính, xu hướng tính dục và bản dạng giới, sắc tộc, tôn giáo, tuổi tác, điều kiện cơ thể, và vùng miền.

http://dongtinhvietnam.com/uploads/2014/thang04/tuan01/private/ha-va-upr.jpg
Ảnh: Hội thỏa về các cam kết của Việt Nam trong kỳ UPR 2014 và vai trò của các tổ chức NGOs được tổ chức bởi PPWG, GPAR, GENCOMNET và CIFPEN ở Hà Nội (nguồn: iSEE)

Tình trạng kỳ thị và phân biệt đối xử ở Việt Nam
Cho dù kỳ thị và phân biệt đối xử tương đối phổ biến ở Việt Nam nhưng chưa phải là chủ đề được nghiên cứu thấu đáo. Theo Viện nghiên cứu xã hội kinh tế và môi trường (iSEE), phân biệt đối xử đối với người đồng tính, song tính và chuyển giới (LGBT) rất nghiêm trọng. Nhiều người chuyển giới bị từ chối tuyển dụng vì thể hiện giới của họ khác với giới tính ghi trong chứng minh thư. Có 13% người chuyển giới bị đuổi việc khi họ bị phát hiện ra là người chuyển giới. Các nghiên cứu khác của iSEE cũng chỉ ra phân biệt đối xử rất phổ biến trong nhà trường dẫn đến bỏ học, hoặc trong cơ sở y tế dẫn đến việc không dám tiếp cận dịch vụ sức khỏe tình dục. Những định kiến và kỳ thị dẫn đến tỉ lệ trầm cảm, tự tử trong cộng đồng LGBT rất cao. Ví dụ một nghiên cứu của iSEE chỉ ra tỉ lệ tự tử (không thành) trong cộng đồng đồng tính nữ là 17%, cao gấp 30 lần so với tỉ lệ chung của dân số.
Vấn đề kỳ thị và phân biệt đối xử với người có HIV cũng phổ biến. Nhiều vụ việc người có HIV bị đuổi việc khi bị phát hiện đã được báo chí đăng tải. Hơn thế, con cái của họ cũng bị kỳ thị và phân biệt đối xử trong học tập và cuộc sống. Ví dụ, cháu Lê Đức Mạnh ở Thanh Hóa con của chị Nguyễn Thị Lệ Thủy là người có HIV. Tuy cháu Mạnh âm tính nhưng nhà trường yêu cầu cháu phải đi xét nghiệm HIV mấy lần với sự chứng kiến của giáo viên, có dấu đỏ của bệnh viện xác nhận mới cho cháu nhập học. Tuy nhiên, khi cháu nhập học thì gặp phải sự phản đối của phụ huynh học sinh khác. Họ không cho con đi học làm sĩ số của lớp từ 49 xuống còn 14 khiến nhà trường “bắt buộc” cho Mạnh nghỉ học.
Một trong những phân biệt đối xử công khai gây bức xúc dư luận đó là không tuyển người Thanh Hóa, Nghệ An hoặc Hà Tĩnh. Nhiều quảng cáo, tờ rơi tuyển dụng học viên như ở trường ASEAN ghi rõ ràng “Không lấy: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh”. Gần đây, vấn đề trở nên căng thẳng khi nhiều công ty ở Bình Dương tuyên bố không tuyển công nhân người Thanh Hóa và Nghệ An. Tuy nhiên, không có “người Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh” nào đứng ra khởi kiện các công ty này dù họ phân biệt đối xử một cách công khai, có hệ thống như vậy. Các cơ quan chức năng cũng không nhìn ra sự nghiêm trọng của sự phân biệt đối xử, mà mới tập trung vào việc “nâng cao hiểu biết và văn hóa tuyển dụng cho các công ty”.
Như vậy, kỳ thị và phân biệt đối xử khá phổ biến và công khai ở Việt Nam. Tuy nhiên, chưa có trường hợp nào người dân khởi kiện thành công với người/cơ quan có hành vi phân biệt đối xử. Các cơ quan nhà nước dường như cũng chưa nhận thức đầy đủ về tính nghiêm trọng của vấn đề, và người dân cũng chưa biết đầy đủ quyền của mình để tự lên tiếng. Việt Nam cũng chưa có khung pháp lý rõ ràng và thủ tục cụ thể để người dân khiếu kiện khi bị phân biệt đối xử.
Chống kỳ thị và phân biệt đối xử trong luật pháp Việt Nam
Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam có nhiều điều bảo vệ quyền bình đẳng và chống phân biệt đối xử. Cụ thể là điều 16 quy định (i) Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật; Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội. Điều này có nghĩa bất kỳ ai sinh ra là nam hay nữ, người dân tộc thiểu số hay đa số, già hay trẻ, sống ở thành thị hay nông thôn, có khuyết tật hay không, theo tôn giáo hay không, đều có quyền bình đẳng trước pháp luật, và không bị phân biệt đối xử trong đời sống.
Bên cạnh đó, Hiến pháp cũng có một số điều quy định về một số khía cạnh cụ thể. Ví dụ, khoản 2 điều 5 nhấn mạnh về sắc tộc: Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc. Khoản 1 điều 24 nhấn mạnh về tôn giáo: Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật. Khoản 1 và 3 điều 26 nhận mạnh về giới: (i) Công dân nam, nữ bình đẳng về mọi mặt. Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền và cơ hội bình đẳng giới; (ii) Nghiêm cấm phân biệt đối xử về giới.
Trong các luật chuyên ngành của Việt Nam cũng có một số điều liên quan đến kỳ thị và phân biệt đối xử, mức độ chi tiết có khác nhau giữa các văn bản pháp luật khác nhau. Ví dụ, trong Nghị định về công tác dân tộc (NĐ Số: 05/2011/NĐ-CP), ở khoản 1 điều 7 có ghi “Mọi hành vi kỳ thị, phân biệt đối xử, chia rẽ, phá hoại đoàn kết các dân tộc” bị nghiêm cấm. Tuy nhiên, không có giải thích rõ ràng thế nào là hành vi kỳ thị, phân biệt đối xử với người dân tộc thiểu số. Bên cạnh đó, không có những danh mục hành vi kỳ thị và phân biệt đối xử bị nghiêm cấm.
Luật người khuyết tật (năm 2010) có khoản 2 và 3 điều 2 định nghĩa rất rõ “Kỳ thị người khuyết tật là thái độ khinh thường hoặc thiếu tôn trọng người khuyết tật vì lý do khuyết tật của người đó. Phân biệt đối xử người khuyết tật là hành vi xa lánh, từ chối, ngược đãi, phỉ báng, có thành kiến hoặc hạn chế quyền của người khuyết tật vì lý do khuyết tật của người đó”. Luật người khuyết tật cũng nhấn mạnh đến việc thông tin, tuyên truyền, giáo dục để “chống kỳ thị phân biệt đối xử người khuyết tật” [điều 13]. Đặc biệt khoản 1 điều 14 có ghi rõ “kỳ thị phân biệt đối xử người khuyết tật” là một hành vi bị nghiêm cấm. Tuy nhiên, Luật người khuyết tật không nói rõ việc nghiêm cấm các hành vi kỳ thị và phân biệt đối xử trong nhà trường, trong việc làm, mà chỉ tập trung vào việc “tạo điều kiện, giúp đỡ, và đảm bảo” cho người khuyết tật.
Luật phòng chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS) (gọi tắt là Luật phòng chống HIV/AIDS năm 2006) có ghi ở khoản 4 và 5 điều 2 “Kỳ thị người nhiễm HIV là thái độ khinh thường hay thiếu tôn trọng người khác vì biết hoặc nghi ngờ người đó nhiễm HIV hoặc vì người đó có quan hệ gần gũi với người nhiễm HIV hoặc bị nghi ngờ nhiễm HIV. Phân biệt đối xử với người nhiễm HIV là hành vi xa lánh, từ chối, tách biệt, ngược đãi, phỉ báng, có thành kiến hoặc hạn chế quyền của người khác vì biết hoặc nghi ngờ người đó nhiễm HIV hoặc vì người đó có quan hệ gần gũi với người nhiễm HIV hoặc bị nghi ngờ nhiễm HIV”. Ở khoản 3 điều 8 về những hành vi bị nghiêm cấm có ghi “Kỳ thị, phân biệt đối xử với người nhiễm HIV”.
Trong luật phòng chống HIV/AIDS có ghi khá cụ thể các điều khoản liên quan đến việc phòng chống các hành vi kỳ thị và phân biệt đối xử với người có HIV. Ví dụ, điều 8 quy định rất rõ người sử dụng lao động không được chấm dứt hợp đồng, thuyên chuyển công tác, từ chối nâng lương hoặc yêu cầu xét nghiệm HIV. Điều 9 nghiêm cấm các cơ sở giáo dục từ chối tiếp nhận học sinh, sinh viên vì lý do họ nhiễm HIV, tách biệt, hạn chế, hoặc cấm đoán học sinh, sinh viên tham gia hoạt động vì họ nhiễm HIV, hoặc yêu cầu xét nghiệm HIV.
Trong hệ thống pháp luật Việt Nam có nhiều nghị định xử phạt hành chính, có những quy định cụ thể về các hành vi bị nghiêm cấm và xử phát. Ví dụ Nghị định số 69/2011/NĐ-CP Quy định xử phạt vi phạm hành chính về y tế dự phòng, môi trường y tế và phòng, chống HIV/AIDS. Trong nghị định này, có điều 22 quy định phạt các hành vi “Vi phạm các quy định của pháp luật về chống kỳ thị, phân biệt đối xử đối với người nhiễm HIV. Ví dụ, khoản 1 điều 22 quy định: Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây: a) Từ chối tuyển dụng vì lý do người dự tuyển lao động nhiễm HIV, trừ trường hợp quy định tại Điều 20 của Nghị định số 108/2007/NĐ-CP ngày 26 tháng 6 năm 2007 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS); b) Cản trở hoặc từ chối tiếp nhận trẻ em, học sinh, sinh viên, học viên vào học trong các cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân vì lý do người đó nhiễm HIV hoặc là thành viên trong gia đình có người nhiễm HIV; v.v.
Một Luật chống kỳ thị và phân biệt đối xử
Như vậy, các văn bản pháp luật chuyên ngành có đề cập đến kỳ thị và phân biệt đối xử ở các mức độ chi tiết khác nhau. Việc xử phạt các hành vi này được quy định ở các Nghị định xử phạt hành chính. Tuy nhiên, tất cả các văn bản hiện tại chưa quy định rõ chế tài để một công dân hoặc tổ chức đại diện cho công dân có thể khiếu kiện vì bị kỳ thị và phân biệt đối xử. Đây có thể là lý do cho đến hiện tại chưa có một tiền lệ nào để người dân kiện vì mình bị phân biệt đối xử. Chính vì vậy, các tổ chức phi chính phủ hoạt động trong việc bảo vệ quyền của các nhóm yếu thế, thiểu số nên tham gia vận động, góp ý cho một Luật chống phân biệt đối xử tốt, phản ánh thực tế cũng như chuẩn mực quốc tế.
Theo Dienngon