PDA

View Full Version : Chiều hướng duy trì điều trị ở người nhiễm HIV được điều trị thuốc kháng re-tro virut



songchungvoi_HIV
25-12-2013, 08:26
TẠP CHÍ Y HỌC DỰ PHÒNG

Trang: 161
Tập XXIII, số 10(146) 2013 Số đặc biệt
Chiều hướng duy trì điều trị ở người nhiễm HIV được điều trị thuốc kháng re-tro vi rút. Kết quả khảo sát 30 cơ sở điều trị ngoại trú tại khu vực phía nam, 2009-2012
Trend of ARV retention among HIV patients on antiretroviral therapy: Results from a survey of 30 OPCs in southern Vietnam 2009-2012
Tác giả: Khưu Văn Nghĩa, Nguyễn Thị Minh Thu, Phạm Duy Quang, Phạm Thị Minh Hằng, Nguyễn Duy Phúc, Phạm Đăng Đoan Thùy, Trần Phúc Hậu, Phan Trọng Lân, Nguyễn Vũ Thượng
Tóm tắt:
Nghiên cứu này nhằm đánh giá chiều hướng duy trì điều trị ARV sau 12, 24, 36 và 48 tháng ở người nhiễm HIV tại khu vực phía Nam giai đoạn 2009-2012. Chỉ số lâm sàng, sinh học liên quan duy trì điều trị ARV ở người nhiễm HIV thu dung điều trị từ năm 2007 đến năm 2010 ở 30 cơ sở điều trị thuộc 20 tỉnh thành phía Nam được thu thập thông qua bệnh án và các sổ điều trị ARV. Số liệu được nhập và xử lý bằng phần mềm Excel 2007 và Stata phiên bản 12.0. Kết quả điều trị theo thời gian của 13.475 người nhiễm HIV được thu thập cho khảo sát này. Chiều hướng hướng duy trì điều trị ARV sau 12 tháng ở các nhóm người nhiễm được thu dung điều trị năm 2007, 2008, 2009 và 2010 lần lượt là 81,2%; 83,3%; 82,0% và 82,6%. Sau 24 tháng ở các nhóm 2007, 2008 và 2009 lần lượt là 75,9%; 77,9% và 77,5%. Sau 36 tháng ở nhóm 2007 và 2008 lần lượt là 73,1% và 73,8%. Sau 48 tháng ở nhóm 2007 là 66,0%. Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ hướng duy trì điều trị sau 12, 24 và 36 tháng giữa các nhóm (lần lượt p=0,145; 0,113 và 0,572). Một số cơ sở điều trị có tỷ lệ duy trì điều trị ARV thấp nhưng có sự cải thiện rõ rệt theo thời gian. Có sự cải thiện về chăm sóc điều trị, người nhiễm HIV được khởi trị ARV sớm hơn và giảm thời gian chờ từ lúc đủ chuẩn đến khi được điều trị ARV. Tỷ lệ duy trì điều trị ARV sau 12 tháng khá cao, đạt yêu cầu của Tổ chức Y tế Thế giới. Không có sự khác biệt có ý nghĩa về tỷ lệ hướng duy trì điều trị giữa các nhóm người nhiễm được điều trị từ năm 2007 đến 2010.