PDA

View Full Version : Vô sinh và hiếm muộn tăng cao: Thách thức đối với ngành sản khoa



songchungvoi_HIV
13-01-2014, 12:59
Ngày Cập nhật : 31-12-2013

Thông tin từ một hội thảo có quy mô quốc tế về “Cập nhật về hỗ trợ sinh sản” diễn ra mới đây tại Hà Nội, các bác sĩ ngành Sản khoa đến từ nhiều nước trên thế giới đã thống kê được tỷ lệ vô sinh tại châu Âu và châu Mỹ trung bình từ 13% – 25% và 1% - 5% số em bé hiện nay ra đời từ các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Tỷ lệ vô sinh tại Việt Nam hiện nay khoảng 7,7%, con số này đang là thách thức đối với ngành Sản khoa. Tại Quảng Trị, tuy chưa có số liệu thống kê chính xác về tỷ lệ vô sinh và hiếm muộn, nhưng trong những năm gần đây, số cặp vợ chồng khó khăn về đường con cái ngày càng tăng. Việc chữa trị được thực hiện theo nhiều cách khác nhau nhưng không phải cặp vợ chồng nào cũng may mắn thành công.

Vợ chồng chị Hiền cưới nhau đã sáu năm nhưng chờ đợi mãi vẫn chưa có tin vui. Thời gian đầu mới cưới, hai vợ chồng thực hiện kế hoạch, ý định một năm sau mới sinh con cho hợp tuổi bố mẹ. Tuy nhiên, đến lúc muốn sinh con thì dù không áp dụng biện pháp tránh thai nào nhưng mãi chị vẫn chưa có được niềm vui làm mẹ. Chị là thợ may, chồng làm lái xe thuê nên kinh tế gia đình không dư dã nhiều, cộng với áp lực con cái khiến cuộc sống của đôi vợ chồng trẻ ngày càng nặng nề, “cơm không lành, canh không ngọt”.



http://t4gquangtri.vn/images/stories/THUMUCANH/TINMOI/vo%20sinh.jpg
Hạnh phúc làm mẹ



Sau nhiều năm chờ đợi, anh chị mới đi khám bệnh, kết quả chị bị vô sinh do viêm, tắc vòi trứng, còn anh tinh trùng yếu. Khao khát có một đứa con, được bố mẹ hai bên hậu thuẫn, anh chị quyết định dốc hết tiền bạc cho việc thụ tinh trong ống nghiệm. Kiên trì khám chữa bệnh hơn một năm, tốn một khoản chi phí không hề nhỏ, mới đây chị may mắn đậu thai và đang hạnh phúc chờ ngày con chào đời.

Chạy chữa vô sinh, hiếm muộn là một đoạn trường đầy tốn kém về tiền bạc và tinh thần không ít mệt mỏi, hoang mang, bởi không phải cặp vợ chồng nào cũng may mắn thành công. Vợ chồng anh Thành, gần mười lăm năm đeo đuổi từ phương pháp thụ tinh ống nghiệm đến chữa trị đông y, thậm chí anh còn đưa vợ sang Thái Lan chữa vô sinh nhưng kết quả vẫn thất vọng. Vợ anh được chẩn đoán là trứng không cónang noãn, khả năng thụ thai là không thể, nếu muốn thì phải tìm người hiến trứng may ra mới có hi vọng, tuy nhiên cũng không chắc là tỷ lệ thành công cao.

Ngoài trường hợp các cặp vợ chồng vô sinh, hiếm muộn, thì hiện nay, tỷ lệ vô sinh thứ phát ngày càng nhiều. Chị Tâm lần lữa mãi mới chịu đi Bệnh viện Trung ương Huế khám, khi quyết định sinh thêm đứa nữa mà mãi vẫn không có thai. Chị sinh con gái đầu lòng năm 25 tuổi, mới chưa đầy ba tháng sau sinh thì dính bầu ngoài ý muốn nên phải phá, từ đó chị đặt vòng để kế hoạch. Giờ muốn sinh thêm con nhưng đã gần hai năm vẫn không có tín hiệu gì, chị lo lắng đi kiểm tra thì được bác sĩ kết luận là vô sinh thứ phát. Từ kết quả chụp chiếu, xét nghiệm cho thấy ống dẫn trứng bị chít hẹp, chặn đường di chuyển của tinh trùng nên khả năng đậu thai là rất khó.

Có nhiều nguyên nhân gây vô sinh, tỷ lệ gần như ngang nhau giữa nam và nữ. Ngoài trường hợp bất đồng nhóm máu giữa hai vợ chồng, thì đối với nữ giới, nguyên nhân thường gặp nhất là hở eo cổ tử cung, u xơ tử cung, tắc vòi tử cung, rối loạn phóng noãn, suy buồng trứng, dị dạng sinh dục... Ở nam giới, nguyên nhân chính là do không có tinh trùng, tinh trùng ít, rối loạn chức năng sinh lý... và loại vô sinh chưa rõ nguyên nhân.

Theo các chuyên gia về sản khoa, ở Việt Nam nguyên nhân vô sinh phần lớn do nạo phá thai không an toàn, tình dục không an toàn gây ra viêm nhiễm đường sinh dục làm tắc vòi tử cung (chiếm tới 75%); còn rối loạn phóng noãn chỉ chiếm khoảng 20%. Tình trạng nạo phá thai ở tuổi vị thành niên ngày càng gia tăng cũng tỷ lệ thuận với tình trạng vô sinh thứ phát. Nếu như trước đây, vô sinh thứ phát chỉ chiếm khoảng 40% các trường hợp vô sinh, thì hiện nay con số này đã lên đến gần 60%, nhiều hơn cả vô sinh tiên phát.

Trao đổi về vấn đề này, bác sĩ Trần Thị Nguyệt, Phó Giám đốc Trung tâm CSSKSS tỉnh cho biết: “Biến chứng được coi là phổ biến nhất của tình trạng nạo phá thai bừa bãi chính là tắc vòi trứng, gây vô sinh ở nữ giới. Ở Quảng Trị, số trường hợp đến khám tại Trung tâm CSSKSS và các bệnh viện rất ít , hầu hết các ca khám điều trị vô sinh, hiếm muộn đều đi thẳng lên tuyến trên, nên rất khó để thống kê chính xác. Tuy nhiên, có thể khẳng định rằng, càng ngày tình trạng vô sinh, hiếm muộn càng tăng”.

Vô sinh là mối lo của không ít cặp vợ chồng, ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống và hạnh phúc của mỗi gia đình, đồng thời đây cũng là một gánh nặng của ngành y tế. Việc điều trị vô sinh, hiếm muộn mất rất nhiều thời gian, tiền bạc, công sức. Để biết được tình trạng sức khỏe sinh sản của mình, các cặp vợ chồng chậm có con nên làm một số xét nghiệm, siêu âm hoặc chụp chiếu để có kết quả cụ thể và chính xác nhất. Có một thực tế là tâm lý, áp lực nặng nề chuyện con cái cũng ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình điều trị của các cặp vợ chồng. Những trường hợp nhẹ thì điều trị mất khoảng 1 đến 2 tháng, trường hợp khó có khi từ 5 đến 7 năm mới có kết quả, hoặc có nhiều cặp vợ chồng kém may mắn, không bao giờ có được niềm vui làm cha mẹ.

Để hạn chế tối đa tình trạng vô sinh ngày càng phổ biến như hiện nay, gia đình và các trường học cần tăng cường giáo dục kỹ năng sống, cung cấp thông tin cụ thể về những vấn đề của tuổi mới lớn như tình yêu, tình dục, kế hoạch hóa gia đình, hôn nhân cho các bạn trẻ nhằm giảm bớt những nguy cơ dẫn đến hậu quả vô cùng đáng tiếc gây ra vô sinh.

Bác sĩ Trần Thị Nguyệt cũng khuyến cáo thêm, để tránh tình trạng vô sinh thứ phát, ngoài việc cân nhắc về tuổi tác của mẹ, kinh tế gia đình, các cặp vợ chồng không nên kéo dài khoảng cách giữa 2 lần sinh con; thời gian lý tưởng nhất là từ 3 - 5 năm. Các cặp vợ chồng trước khi kết hôn nên được tư vấn tiền hôn nhân để phát hiện, điều trị sớm một số bệnh ảnh hưởng đến khả năng mang thai, đồng thời tránh một số bệnh liên quan đến di truyền.Bài, ảnh: THANH TRÚC (Báo Quảng Trị)

Nguyen Dinh Nam
13-01-2014, 13:22
hic,em ko vô sinh.,nhưng sinh toàN 2 đưa con gái,muốn có thằng cu quấ