Bệnh do vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (hiv/aids)
ICD-10 B20-B24: Acquired immunodeficiency syndrome
Bệnh do vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người thuộc nhóm B trong Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm.
1. Đặc điểm của bệnh:
1.1. Định nghĩa ca bệnh:
- Ca bệnh lâm sàng: Nhiễm HIV được chia làm 4 giai đoạn, phụ thuộc vào các bệnh lý liên quan đến HIV như tình trạng sụt cân, các nhiễm trùng cơ hội, các bệnh ác tính, mức độ hoạt động về thể lực. Người nhiễm HIV có các bệnh lý lâm sàng giai đoạn IV được coi là AIDS, các bệnh lý cụ thể là:
Với người lớn và vị thành niên trên 15 tuổi:
+ Hội chứng suy mòn do HIV (sụt > 10% trọng lượng cơ thể, cộng với tiêu chảy mạn tính không rõ căn nguyên > 1 tháng, hoặc mệt mỏi và sốt kéo dài không rõ căn nguyên > 1 tháng).
+ Có biểu hiện bệnh nhiễm khuẩn cơ hội.
+ Và/hoặc hoạt động mức độ 4: Nằm liệt giường trên 50% số ngày trong tháng trước đó.
Với trẻ em:
+ Suy mòn nặng hoặc suy dinh dưỡng nặng không rõ nguyên nhân không đáp ứng thích hợp với điều trị thông thường
+ Có bệnh nhiễm khuẩn cơ hội.
- Ca bệnh xác định:
+ Xác định trường hợp nhiễm HIV: Một người được xác định nhiễm HIV khi mẫu huyết thanh của người đó dương tính cả ba lần xét nghiệm bằng ba loại sinh phẩm với các nguyên lý, kháng nguyên khác nhau và do những phòng xét nghiệm đạt tiêu chuẩn được Bộ Y tế cho phép khẳng định kết quả xét nghiệm HIV dương tính.
+ Xác định ca bệnh AIDS: Người nhiễm HIV có TCD4 ≤ 200 tế bào/mm3 được coi là suy giảm miễn dịch nặng. Nếu không có xét nghiệm TCD4, tổng số tế bào Lympho có thể sử dụng thay thế. Người nhiễm HIV có tổng số Lympho ≤ 1200 tế bào/mm3 và các triệu chứng liên quan đến HIV cũng được coi là suy giảm miễn dịch nặng. Tình trạng suy giảm miễn dịch của trẻ nhiễm HIV được đánh giá qua số tế bào TCD4 theo lứa tuổi và tỷ lệ TCD4/ tế bào Lympho.
1.2. Chẩn đoán phân biệt với một số bệnh tương tự: Người nhiễm HIV có thời gian nhiều năm khoẻ mạnh như người bình thường mà không có bất cứ biểu hiện gì. Ngay cả khi hệ thống miễn dịch bị suy giảm hoặc người nhiễm ở giai đoạn cuối của quá trình nhiễm HIV (AIDS), trên lâm sàng thường được biểu hiện bằng các nhiễm khuẩn cơ hội của rất nhiều cơ quan như viêm phổi, viêm não, tiêu chảy, nhiễm nấm hoặc ung thư v.v... Do vậy, chỉ có xét nghiệm HIV mới có thể xác định chắc chắn một người có nhiễm HIV hay bị AIDS hay không.
1.3. Xét nghiệm
- Loại mẫu bệnh phẩm: Mẫu bệnh phẩm hiện nay được sử dụng là máu. Một số loại xét nghiệm sử dụng các mẫu bệnh phẩm là nước bọt hoặc nước tiểu cũng đang được nghiên cứu.
- Phương pháp xét nghiệm: Cho đến nay có rất nhiều phương pháp xét nghiệm HIV, có thể tóm tắt một số phương pháp chủ yếu sau:
+ Xét nghiệm phát hiện kháng thể: Hầu hết các xét nghiệm HIV hiện nay là xét nghiệm huyết thanh dựa trên nguyên lý phát hiện kháng thể. Có rất nhiều loại xét nghiệm phát hiện kháng thể như kỹ thuật ngưng kết hạt vi lượng SERODIA-HIV, kỹ thuật miễn dịch gắn men ELISA, thử nghiệm chấm - thấm (thử nghiệm nhanh), thử nghiệm miễn dịch điện di Western blot, thử nghiệm miễn dịch huỳnh quang (IFA) v.v... ưu điểm của các xét nghiệm phát hiện kháng thể là nhanh, kỹ thuật không quá khó, giá thành vừa phải. Tuy nhiên, nhược điểm là độ nhạy và độ đặc hiệu của một số sinh phẩm hạn chế, do vậy phải kết hợp các chiến lược khác nhau khi cần chẩn đoán xác định nhiễm HIV.
+ Xét nghiệm phát hiện kháng nguyên HIV: Sinh phẩm phát hiện kháng nguyên hiện nay chủ yếu là phát hiện kháng nguyên p24 tự do. Ưu điểm của xét nghiệm này là phát hiện trực tiếp kháng nguyên nên chỉ ra được tình trạng nhiễm HIV ngay cả khi chưa có đáp ứng kháng thể. Tuy nhiên, đây cũng là xét nghiệm khó và tốn kém.
+ Nuôi cấy HIV: Người ta cũng đã có thể nuôi cấy được HIV trong môi trường PHA có yếu tố tăng sinh tế bào. Việc nuôi cấy HIV có thể có ích trong việc giám sát sử dụng thuốc điều trị. Tuy nhiên hạn chế của nuôi cấy HIV là tốn kém, cần nhiều thời gian và nguy cơ tiếp xúc với nồng độ cao HIV.
+ Kỹ thuật lai ghép phân tử hoặc sử dụng phản ứng chuỗi men polimeraza (PCR). Ưu điểm của phương pháp này là có thể chẩn đoán sớm nhiễm HIV qua việc phát hiện ARN hoặc ADN của HIV. Tuy nhiên, phương pháp này khó về kỹ thuật, độ nhạy cũng như độ đặc hiệu của nó chưa rõ và giá thành cũng khá đắt.
- Chiến lược/phương cách xét nghiệm: Các phương cách xét nghiệm HIV phụ thuộc vào mục đích xét nghiệm và tỷ lệ nhiễm HIV ở từng nhóm đối tượng:
+ Phương cách I (áp dụng cho công tác an toàn truyền máu): Mẫu huyết thanh được coi là dương tính với phương cách I khi mẫu đó dương tính với một trong các thử nghiệm như: ELISA, SERODIA hay thử nghiệm nhanh. Trong truyền máu, mẫu máu được xét nghiệm với phương cách I nếu dương tính hay nghi ngờ đều phải loại bỏ.
+ Phương cách II (áp dụng cho giám sát trọng điểm): Mẫu huyết thanh được coi là dương tính với phương cách II khi mẫu đó dương tính cả 2 lần xét nghiệm bằng 2 loại sinh phẩm với nguyên lý và chuẩn bị kháng nguyên khác nhau.
+ Phương cách III (áp dụng cho khẳng định các trường hợp nhiễm HIV): Mẫu huyết thanh được coi là dương tính với phương cách III khi mẫu đó dương tính cả 3 lần xét nghiệm bằng 3 loại sinh phẩm với nguyên lý và chuẩn bị kháng nguyên khác nhau.
2. Tác nhân gây bệnh
- Tên tác nhân: Tác nhân gây bệnh là do vi rút gây suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV - Human immunodeficiency virus). Đây là loại vi rút có men sao chép ngược. Hiện nay, người ta xác định có hai loại HIV-1 và HIV-2. HIV-1 là nguyên nhân chính gây AIDS trên toàn thế giới. HIV-2 tìm thấy chủ yếu ở Tây Phi và khả năng lây truyền cũng như gây bệnh ít hơn so với HIV-1.
- Hình thái: HIV thuộc họ Retroviridae, có dạng hình cầu, kích thước khoảng từ 80-120 nm. Cấu tạo gồm 3 lớp:
+ Lớp vỏ ngoài là màng lipit kép. Gắn lên trên màng này có các gai nhú là phân tử glucoprotein gồm gp120 và các yếu tố xuyên màng gp41.
+ Lớp vỏ trong: Gồm 2 lớp protein là p17 và protein lõi p24. Đây là kháng nguyên quan trọng để chẩn đoán nhiễm HIV.
+ Lõi gồm 2 sợi ARN có các men gắn kết, men tổng hợp và men sao chép ngược. Nhờ men sao chép ngược nên khi xâm nhập vào tế bào, vi rút có thể tổng hợp ADN 2 vòng. Đoạn cuối hai đầu của AND mới tạo này có khả năng gắn được ổn định vào nhiễm sắc thể ADN của tế bào và trở thành 1 tiền vi rút. Tiền vi rút này sẽ như một gen của tế bào bị nhiễm vi rút và có thể tồn tại thầm lặng không phát triển và truyền sang cho thế hệ tế bào sau khi có phân bào. Nó cũng có thể nhờ men ribonuclease của tế bào nhiễm để tạo ra ARN truyền tin giúp tạo ra các protein của vi rút hoàn chỉnh. Đây là một đặc trưng của HIV và gây khó khăn cho việc sản xuất các thuốc để tiêu diệt HIV khi nó trong tế bào và lại gắn vào ADN của tế bào. Tính biến đổi gien của HIV là rất lớn và cũng là một đặc trưng quan trọng. Do vậy, nó gây khó khăn cho việc phát triển vắc xin phòng HIV cũng như sản xuất thuốc điều trị.
- Khả năng tồn tại trong môi trường bên ngoài: HIV là vi rút dễ bị tiêu diệt bởi các tác nhân lý hoá ở môi trường bên ngoài cơ thể. Các nghiên cứu của Trung tâm kiểm soát bệnh tật Hoa Kỳ đã chỉ ra rằng, trong giọt máu hoặc dịch cơ thể khô, HIV chỉ có thể tồn tại được từ vài phút đến vài giờ tuỳ thuộc vào môi trường. HIV cũng rất dễ bị tiêu diệt bởi tác động của nhiệt độ và chất sát khuẩn, nó bị tiêu diệt sau 30 phút ngâm trong cồn 70 độ, dung dịch Cloramin 1%, nước Javen 1%. Trong bơm kim tiêm có chứa máu không bị khô, chúng có thể tồn tại thậm chí đến vài ngày, trong xác chết bệnh nhân AIDS, chưa rõ HIV có thể tồn tại bao lâu nhưng một số nghiên cứu cho rằng chúng tồn tại trong vòng 24 giờ. Tuy nhiên, ở nhiệt độ dưới 00C, tia X, tia cực tím không giết được HIV.
3. Đặc điểm dịch tễ học
3.1. Trên thế giới
- Những ca bệnh đầu tiên được phát hiện vào tháng 6 năm 1982 tại Los Angeles (Mỹ) trên 5 người tình dục đồng giới nam bị nhiễm trùng Pneumocytis Carini do suy giảm miễn dịch mắc phải. Sau đó nhiều nơi cũng lần lượt công bố các ca bệnh lâm sàng liên quan đến dấu hiệu suy giảm miễn dịch mắc phải. Đặc biệt từ khi phát triển ra các phương pháp xét nghiệm HIV, người ta thấy HIV có mặt ở mọi quốc gia trên thế giới.
- Theo báo cáo của Chương trình phối hợp liên hợp quốc về HIV/AIDS (UNAIDS), cuối năm 2007 toàn thế giới có khoảng 33,2 triệu người nhiễm HIV đang còn sống, với khoảng 30,8 triệu là ngưòi lớn và khoảng 2,5 triệu trẻ em. Tổng số người nhiễm HIV được chia đều cho cả nam và nữ với tỷ lệ là 50:50. Vùng cận Sahara (Châu Phi) có số người hiện nhiễm HIV cao nhất khoảng 24,5 triệu người, tiếp đến là vùng Đông Nam Á khoảng 4 triệu người. Các vùng còn lại trên thế giới đều có người nhiễm HIV nhưng với số lượng và tỷ lệ thấp. Những năm gần đây, tỷ lệ người nhiễm HIV trên tổng dân số có xu hướng không tăng do số nhiễm mới có xu hướng chững lại, số người được tiếp cận và điều trị thuốc kháng vi rút nhiều hơn và tuổi thọ bình quân trên đầu người chung toàn thế giới có xu hướng tăng lên.
3.2. Tại Việt Nam
- Ca nhiễm HIV đầu tiên được phát hiện tại Việt Nam vào tháng 12 năm 1990. Tính đến ngày 31/12/2007 số người nhiễm HIV còn sống được báo cáo trên toàn quốc là 121.734 người; có 27.669 bệnh nhân AIDS và 34.476 trường hợp đã tử vong do HIV/AIDS. Nhiễm HIV trên đối tượng nghiện chích ma tuý vẫn chiếm đa số (44%) và đường lây HIV chủ yếu vẫn là đường máu chiếm tới 75,9%. Người nhiễm HIV theo báo cáo chủ yếu vẫn là nam giới chiếm tới 82,7%. Đã có 100% số tỉnh thành phố, 96,4% số huyện/quận/thị xã và 65,8% số xã/phường báo cáo có người nhiễm HIV
- Hình thái dịch HIV/AIDS ở Việt Nam vẫn trong giai đoạn tập trung. Các trường hợp nhiễm HIV chủ yếu tập trung trong nhóm có hành vi nguy cơ cao như nghiện chích ma tuý, hoạt động mại dâm. Tuy nhiên, qua giám sát trọng điểm trong những năm gần đây cho thấy dịch đã có dấu hiệu lan ra cộng đồng.
4. Nguồn truyền nhiễm
- Ổ chứa: Người là ổ chứa duy nhất.
- Thời gian ủ bệnh: Thời gian ủ bệnh rất khác nhau giữa người này với người khác. Thời gian từ khi nhiễm HIV đến khi phát hiện được kháng thể kháng vi rút thông thường từ 1-3 tháng nhưng thời gian từ khi nhiễm HIV đến khi được chẩn đoán là AIDS rất khác nhau. Khoảng một nửa số người nhiễm HIV sẽ phát triển thành AIDS trong vòng 10 năm nếu không được điều trị bằng thuốc kháng HIV. Thời gian chuyển thành AIDS của trẻ em nhiễm HIV ngắn hơn của người lớn.
- Thời kỳ lây truyền: Người ta cho rằng, một người có khả năng làm lây truyền HIV cho người khác rất sớm ngay sau khi nhiễm HIV và kéo dài suốt đời. Các bằng chứng về dịch tễ học cho thấy khả năng lây nhiễm HIV cao nhất trong những tháng đầu sau khi nhiễm HIV và những người nhiễm HIV ở giai đoạn cuối.
5. Phương thức lây truyền
5.1. Lây truyền HIV qua đường máu: HIV có nhiều trong máu toàn phần cũng như trong các thành phần của máu như hồng cầu, tiểu cầu, huyết tương, các yếu tố đông máu. Do đó, HIV có thể lây truyền qua máu và các chế phẩm của máu có nhiễm HIV.
- Lây truyền HIV từ người này sang người khác qua các dụng cụ xuyên chích qua da như trong các trường hợp sau:
+ Dùng chung bơm kim tiêm, nhất là với người tiêm chích ma túy;
+ Dùng chung các loại kim xăm trổ, kim châm cứu, các dụng cụ xăm lông mi, xăm mày, lưỡi dao cạo râu...;
+ Dùng chung hoặc dùng khi chưa được tiệt khuẩn đúng cách các dụng cụ phẫu thuật, dụng cụ khám chữa bệnh... có xuyên cắt qua da.
- Lây truyền qua các vật dụng có thể dính máu của người khác trong các trường hợp như dùng chung bàn chải đánh răng.
- Lây truyền qua các tiếp xúc trực tiếp với máu khác, như bị dính máu của người nhiễm HIV vào nơi có các vết thương hở hoặc da, niêm mạc bị xây sát;
- Lây truyền qua truyền máu và các sản phẩm của máu hoặc ghép các mô, các tạng... bị nhiễm HIV hoặc qua các dụng cụ truyền máu, lấy máu... không được tiệt trùng đúng cách.
5.2. Lây truyền HIV qua đường tình dục
- Sự lây truyền HIV qua đường tình dục xảy ra khi các dịch thể (máu, dịch sinh dục) nhiễm HIV (của người nhiễm HIV) xâm nhập vào cơ thể bạn tình không nhiễm HIV.
- Tất cả các hình thức quan hệ tình dục (dương vật - hậu môn; dương vật - âm đạo; dương vật - miệng) với một người nhiễm HIV đều có nguy cơ lây nhiễm HIV. Tuy nhiên, mức độ nguy cơ là khác nhau, nguy cơ cao nhất là qua đường hậu môn, rồi tiếp đến là qua đường âm đạo và cuối cùng là qua đường miệng. Người nhận tinh dịch có nguy cơ lây nhiễm HIV cao hơn.
5.3. Lây truyền HIV từ mẹ sang con. Người mẹ nhiễm HIV có thể truyền HIV cho con:
- Khi mang thai: HIV từ máu của mẹ nhiễm HIV qua rau thai để vào cơ thể thai nhi.
- Khi sinh: HIV từ nước ối, dịch tử cung, dịch âm đạo của mẹ xâm nhập vào trẻ khi sinh (qua niêm mạc mắt, mũi, hậu môn hoặc da xây sát của trẻ trong quá trình đẻ). Khi sinh HIV cũng có thể từ trong máu mẹ thông qua các vết loét ở cơ quan sinh dục mẹ mà dính vào cơ thể (niêm mạc) của trẻ sơ sinh.
- Khi cho con bú: HIV có thể lây qua sữa hoặc qua các vết nứt ở núm vú người mẹ, nhất là khi trẻ đang có tổn thương ở niêm mạc miệng.
6. Tính cảm nhiễm và miễn dịch: Cho đến nay người ta vẫn chưa tìm thấy mối liên quan giữa tính cảm nhiễm HIV với chủng tộc. Những người mắc các nhiễm khuẩn lây qua đường tình dục, đặc biệt có loét bộ phận sinh dục hoặc những người có chít hẹp bao quy đầu có tính cảm nhiễm với HIV cao hơn. Đến nay cũng chưa có kết luận nào về khả năng miễn dịch với HIV.
7. Các biện pháp phòng, chống dịch
7.1. Biện pháp dự phòng
- Tuyên truyền giáo dục sức khoẻ: Do đến nay vẫn chưa có thuốc điều trị đặc hiệu và vắc xin dự phòng, việc tuyên truyền giáo dục sức khoẻ cho mọi người dân đặc biệt những người có hành vi nguy cơ cao về các nguy cơ và biện pháp dự phòng lây nhiễm HIV là quan trọng nhất.
- Vệ sinh phòng bệnh: Tránh tiếp xúc trực tiếp với máu, dịch cơ thể và dịch sinh dục là nguyên tắc chủ đạo trong dự phòng lây nhiễm HIV. Khi phải tiếp xúc với máu, dịch tiết hoặc dịch sinh dục, cần áp dụng các biện pháp dự phòng như sử dụng bao cao su khi quan hệ tình dục, sử dụng vật ngăn cách như kính bảo hộ, găng tay, áo choàng khi chăm sóc, ngâm tất cả các đồ dùng có dính máu, dịch cơ thể trong dung dịch nước sát trùng trước khi xử lý là các biện pháp phòng tránh lây nhiễm HIV có hiệu quả.
7.2. Biện pháp chống dịch
- Tổ chức:
+ Cần thiết lập hệ thống phòng, chống HIV từ Trung ương đến địa phương để đảm bảo cho mọi người dân được tiếp cận với thông tin và các dịch vụ dự phòng lây nhiễm HIV một cách hiệu quả.
+ Song song với các biện pháp dự phòng chủ động, công tác giám sát phát hiện, giám sát trọng điểm, giám sát hành vi và tổ chức báo cáo dịch theo quy định của Bộ Y tế cũng giúp cho công tác phòng, chống HIV/AIDS có hiệu quả.
- Chuyên môn:
+ Thu dung, cách ly, điều trị bệnh nhân: Người nhiễm HIV và bệnh nhân AIDS không cần phải cách ly khỏi cộng đồng. Phần lớn, các công việc chăm sóc và điều trị cho người nhiễm HIV và bệnh nhân AIDS đều thực hiện tại gia đình và cộng đồng. Người nhiễm HIV chỉ điều trị tại các bệnh viện khi có biểu hiện nhiễm khuẩn cơ hội hoặc đến khám và điều trị bằng thuốc kháng vi rút theo hẹn của thày thuốc.
+ Quản lý người lành mang vi rút, người tiếp xúc: HIV không lây qua các giao tiếp thông thường như bắt tay, ôm hôn xã giao, cùng làm việc, cùng học, ở cùng nhà, cùng ngồi trên phương tiện giao thông, cùng đi chợ, ngồi trong rạp hát, rạp chiếu bóng, ho, hắt hơi, dùng chung nhà vệ sinh, buồng tắm, bể bơi công cộng hoặc muỗi và côn trùng khác đốt không làm lây nhiễm HIV. Do vậy, người nhiễm HIV vẫn sinh hoạt và làm việc bình thường. Tuy nhiên, người nhiễm HIV cũng cần áp dụng các biện pháp dự phòng tránh làm lây nhiễm HIV cho người khác như sử dụng bao cao su khi quan hệ tình dục, không dùng chung các dụng cụ xuyên chích qua da mà chưa được tiệt khuẩn, không cho máu, tinh dịch hay các mô dùng trong ghép tạng. Người chăm sóc bệnh nhân AIDS cũng cần áp dụng các biện pháp dự phòng như tránh tiếp xúc trực tiếp với máu và các dịch tiết, dịch sinh dục của người nhiễm HIV.
+ Dự phòng, cho đối tượng nguy cơ cao (thuốc, vắc xin): Hiện nay chưa có vắc xin dự phòng lây nhiễm HIV cho bất cứ đối tượng nào kể cả đối tượng có nguy cơ cao. Những người có phơi nhiễm nghề nghiệp với máu có nguy cơ lây nhiễm HIV được khuyến cáo điều trị dự phòng phơi nhiễm bằng thuốc kháng vi rút theo quy định của Bộ Y tế. Phụ nữ nhiễm HIV khi mang thai cũng được khuyến khích và khuyến cáo dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con.
+ Xử lý môi trường:
Khi trên mặt bàn, mặt sàn bị máu hoặc dịch sinh học của bệnh nhân AIDS giây ra, phải đổ ngập tràn chỗ có máu và dịch đó bằng các dung dịch sát khuẩn như nước Javel, dung dịch có Clo..., để 20 phút sau đó dùng giẻ thấm khô rồi rửa sạch tiếp như bình thường.
Đối với các đồ vải có thấm máu và dịch, phải dùng kẹp hoặc găng tay để gắp cho vào túi riêng, nếu không có kẹp thì phải gấp phần có máu và dịch vào trong để nếu cầm thì cầm vào chỗ không có máu để cho vào túi, sau đó vận chuyển đến nơi huỷ hoặc nhà giặt. Phải ngâm các đồ vải này trong các hoá chất sát khuẩn 20 phút trước khi xử lý.
Đối với các chất thải (Đờm, nước tiểu, phân... có máu hoặc các dịch sinh học như dịch nước báng, dịch màng phổi, dịch não tuỷ...) cũng xử lý tương tự. Đổ ngập tràn vùng chất thải bằng các hoá chất sát khuẩn để 20 phút trước khi đổ vào nơi thải chung.
Luôn rửa tay bằng xà phòng trước và sau khi đeo găng, trước và sau khi thăm khám bệnh nhân, sau khi đi vệ sinh hoặc giúp bệnh nhân vệ sinh.
7.3. Nguyên tắc điều trị
- Điều trị các bệnh nhiễm khuẩn cơ hội được thực hiện bất cứ khi nào có biểu hiện bệnh nhiễm khuẩn cơ hội. Tuy nhiên điều trị bằng kháng retrovirus (ARV) chỉ thực hiện khi có đủ chỉ định.
- Điều trị kháng retrovirus là một phần trong tổng thể các biện pháp chăm sóc và hỗ trợ về y tế, tâm lý và xã hội cho người nhiễm HIV.
- Bất cứ phác đồ điều trị nào cũng phải có ít nhất 3 loại thuốc ARV (Liệu pháp kháng retrovirus hoạt tính cao: Highly Active Antiretroviral Therapy – HAART)
- Sự tuân thủ điều trị của bệnh nhân là yếu tố quan trọng quyết định thành công của điều trị kháng retrovirus.
- Các thuốc kháng retrovirus chỉ có tác dụng ức chế sự nhân lên của vi rút mà không chữa khỏi hoàn toàn bệnh AIDS nên người bệnh phải điều trị kéo dài suốt cuộc đời và vẫn phải áp dụng các biện pháp dự phòng để tránh lây truyền vi rút cho người khác.
- Người bệnh điều trị kháng retrovirus khi chưa có tình trạng miễn dịch được phục hồi vẫn phải điều trị dự phòng các bệnh nhiễm khuẩn cơ hội.
- Người nhiễm HIV chưa có chỉ định điều trị thuốc kháng retrovirus cần được tiếp tục theo dõi về lâm sàng và miễn dịch 3-6 tháng một lần để xem xét tiến triển của bệnh và chỉ định điều trị ARV trong tương lai.
7.4. Kiểm dịch y tế biên giới: Chương trình phòng, chống HIV/AIDS toàn cầu đã được Tổ chức Y tế Thế giới khởi động từ những năm 1987 và hiện nay Liên hợp quốc đã có Chương trình phối hợp của Liên hợp quốc về HIV/AIDS (UNAIDS) cho công tác phòng, chống HIV/AIDS. Một số ít nước trên thế giới vẫn yêu cầu xét nghiệm HIV để cấp thị thực nhập cảnh cho những người đến định cư hoặc sinh sống lâu dài. Tổ chức Y tế Thế giới không khuyến cáo và không ủng hộ biện pháp này. Việt Nam và các nước trong khu vực Đông Nam Á cũng không yêu cầu thực hiện biện pháp này.
http://www.ihph.org.vn
Hiểu đúng về những hành vi lây nhiễm HIV
Thứ ba, 22/7/2014 | 11:01 GMT+7
Bệnh lây qua máu, tinh dịch, dịch âm đạo, sữa mẹ. Virus HIV cũng hiện diện trong các dịch tiết khác như nước mắt, nước bọt, mồ hôi, nước tiểu nhưng không đủ khả năng lây nhiễm.
Theo bác sĩ Nguyễn Tấn Thủ, "hành vi nguy cơ" là một khái niệm phổ biến khi đề cập đến HIV nói riêng và các bệnh lây nhiễm qua đường tình dục nói chung (STI). Hiểu một cách đơn giản, đây là nhóm hành vi có thể khiến cá nhân lây nhiễm một căn bệnh từ người khác.
Nhìn chung, HIV và các bệnh nhiễm trùng lây truyền qua đường tình dục có những đặc điểm:
- Tính chất âm thầm, mạn tính: Có giai đoạn không triệu chứng kéo dài, thậm chí tính bằng năm. Triệu chứng bệnh đôi khi khó nhận biết.
- Không biểu hiện triệu chứng (như bệnh lậu không triệu chứng, HIV giai đoạn không triệu chứng) hoặc không bộc lộ thành bệnh (ở dạng người lành mang trùng), người nhiễm vẫn có khả năng lây cho người khác.
- Trên thực hành lâm sàng, nhiều bệnh trong số này chỉ có thể được chẩn đoán xác định bằng xét nghiệm. Đa số trường hợp nhiễm HIV hay STI đều không biết thời điểm chính xác mình bị lây nhiễm, đồng thời cũng không biết nguồn lây cho mình.
Vì các nguyên nhân kể trên, người ta dùng thuật ngữ “có nguy cơ” nhằm ám chỉ khả năng lây nhiễm khi một người nào đó từng thực hiện hành vi nguy cơ có thể lây nhiễm bệnh. Từ đó, tư vấn viên sẽ hướng họ đến với các xét nghiệm tầm soát bệnh.
Hành vi nguy cơ được xác định khi:
1. Tiếp xúc với các dịch tiết nhất định như: máu, tinh dịch, dịch âm đạo, sữa mẹ. HIV hiện diện trong các dịch tiết khác như nước mắt, nước bọt, mồ hôi, nước tiểu… nhưng không đủ khả năng lây nhiễm.
2. Tiếp xúc với các chất dịch trên qua niêm mạc (âm đạo, hậu môn, mắt, miệng), da bị tổn thương (vết thương hở), trực tiếp vào máu (đâm kim, truyền máu, tiêm chích).
Hiểu đúng về các đường lây truyền HIV:
1. Đường máu
Tiêm chích ma túy chung kim là hành vi nguy cơ rất cao. Ở đây cần lưu ý đến tính chất “chung kim” vì thực tế nếu chỉ dừng lại ở hành vi tiêm chích ma túy thì chưa được xét là có nguy cơ lây nhiễm HIV. Công tác tiếp cận hiện nay đều hướng đến cung cấp bơm kim tiêm sạch nhằm hạn chế đường lây này trên nhóm tiêm chích ma túy.
Tiếp xúc với máu và các chất thải của người nhiễm HIV thông qua vết thương hở cũng được kể là hành vi nguy cơ. Qua vết thương hở, tỷ lệ lây nhiễm cho một lần tiếp xúc ước tính từ 0,3 đến 0,5%. Tiếp xúc với máu qua vùng da nguyên vẹn cho tỷ lệ lây nhiễm HIV rất thấp, ước tính 0,09%, do vậy được xem là an toàn. Nhóm hành vi này thường được lưu ý trong nhóm người chăm sóc cho bệnh nhân HIV.
Truyền máu cho tỷ lệ lây nhiễm HIV lên đến 100%. Tuy nhiên, với quy định về an toàn truyền máu, các mẫu máu hiến đều được kiểm tra bằng xét nghiệm. Do vậy, khả năng lây nhiễm HIV qua truyền máu đã được khống chế, gần như không xảy ra gần đây.
HIV cũng có thể lây trong một số trường hợp: Bị máu người nhiễm bắn vào mắt, chia sẻ dụng cụ có dính máu như dao cạo râu, bàn chải đánh răng, sử dụng các dụng cụ y tế (bơm tiêm, dao mổ) không tiệt trùng, tai nạn nghề nghiệp (bị kim đâm).
2. Đường tình dục: Quan hệ tình dục xâm nhập mà không có dụng cụ bảo vệ với người nhiễm HIV
Quan hệ xâm nhập là chỉ những hành vi tình dục có tiếp xúc “trong” với cơ quan sinh dục hoặc cơ thể của bạn tình: Anal sex (tình dục qua hậu môn), vaginal sex (tình dục qua đường âm đạo), oral sex (tình dục qua đường miệng). Ngoài ra, hành vi tình dục như quan hệ bằng tay (fingering, fisting) cũng được kể là hành vi xâm nhập.
Các hành vi quan hệ không xâm nhập được xem là an toàn: Ôm hôn, vuốt ve, mơn trớn, thủ dâm cho nhau.
Thứ tự hành vi nguy cơ được phân chia như sau: Anal sex có tỷ lệ lây nhiễm cao nhất, kế đến là vaginal sex, sau cùng là oral sex. Theo đó, "người nhận" có nguy cơ bị nhiễm cao hơn "người cho".
Tỷ lệ lây nhiễm HIV cho mỗi lần quan hệ không bảo vệ ước tính 0,3-0,5% (không quá 1%). Tỷ lệ này sẽ gia tăng theo tần suất quan hệ.
Cần lưu ý rằng quan hệ tình dục có bảo vệ bằng bao cao su vẫn có nguy cơ lây nhiễm HIV nhưng với tỷ lệ thấp hơn hẳn. Người ta cho rằng, bao cao su làm tăng độ an toàn lên đến 90-95% nếu thực hành đúng cách.
3. Mẹ truyền sang con, phân chia tỷ lệ lây nhiễm qua các giai đoạn như sau:
- Trong lúc mang thai: 5-10%.
- Trong lúc chuyển dạ sinh: 15-20%.
- Qua sữa mẹ khi cho con bú: 10-15%.
Như vậy, khả năng lây nhiễm từ mẹ sang con khoảng 35% nếu không được điều trị dự phòng (con số này giảm xuống còn 5% nếu có điều trị dự phòng mẹ con).
4. Các hành vi nguy cơ “gián tiếp”
Thuật ngữ “hành vi nguy cơ gián tiếp” ám chỉ những hành vi thúc đẩy hoặc dẫn đến các hành vi nguy cơ trực tiếp kể trên, theo đó làm tăng thêm khả năng và tỷ lệ lây nhiễm của các hành vi này. Ví dụ:
- Sử dụng ma túy tổng hợp dễ dẫn đến quan hệ tình dục không an toàn.
- Lạm dụng bia rượu dễ dẫn đến quan hệ tình dục không bảo vệ.
- Quan hệ tình dục nhóm (group sex).
- Có nhiều bạn tình.
- Quan hệ tình dục với những hành vi nguy hiểm: Bạo dâm, quan hệ thô bạo, cưỡng hiếp…
Lưu ý: HIV không lây qua các tiếp xúc thông thường, được kể đến là nhóm hành vi “không nguy cơ”. Ví dụ ôm, hôn, bắt tay, ho, hắt hơi, dùng chung nhà vệ sinh, chung chén đũa, chung quần áo, chung giường nệm, bể bơi, côn trùng đốt.
Để quản lý hành vi nguy cơ, bao gồm 2 bước:
1. Đánh giá nguy cơ của bản thân: Thực tế, mỗi cá nhân đều đủ khả năng đánh giá những hành vi nguy cơ của bản thân dựa trên những hiểu biết về đường lây truyền HIV. Thông qua sinh hoạt hằng ngày, tiếp xúc với người khác, mối quan hệ xã hội, các hành vi trong cuộc sống, mỗi người có thể tự trả lời câu hỏi “Đâu là con đường lây có thể ảnh hưởng đến bản thân mình nhiều nhất?”.
2. Lên kế hoạch kiểm soát các hành vi nguy cơ có khả năng ảnh hưởng đến bản thân. Ví dụ:
- Nếu nguy cơ đến từ tiêm chích ma túy, bản thân người đó cần sớm dừng hành vi sử dụng chúng, hoặc chí ít trong giai đoạn chưa thể cai hoàn toàn, cần hạn chế tối đa hành vi chia sẻ kim tiêm khi tiêm chích.
- Nếu nguy cơ đến từ quan hệ tình dục không bảo vệ, bản thân người đó cần trang bị kiến thức về sử dụng bao cao su đúng cách, chuẩn bị sẵn bao cao su, rèn luyện kỹ năng và thói quen sử dụng bao cao su khi quan hệ. Các hành vi gián tiếp có ý nghĩa bao gồm kỹ năng thương thuyết về việc sử dụng bao cao su với bạn tình, kỹ năng từ chối quan hệ không bảo vệ, kỹ năng đeo bao cao su "trộm".
Thúy Ngọc
Những điều ít biết về HIV/AIDS
Những điều ít biết về HIV/AIDS
13:52:13, 03/09/2014
HIV/AIDS mới được thế giới ghi nhận khoảng 30 năm gần đây, trong thời gian này, HIV/AIDS từ một căn bệnh không được biết đến đã trở thành nỗi sợ hãi, ám ảnh trên toàn cầu với hơn 30 triệu bệnh nhân. Mặc dù đã có nhiều giải pháp mới trong công tác phòng và điều trị nhưng hàng năm HIV/AIDS vẫn lấy đi tính mạng của hơn 8.000 người ở Mỹ. Ở khắp nơi trên thế giới, đặc biệt là châu Phi, cận Sahara, vẫn có khoảng 15% dân số nhiễm AIDS.
Nguồn gốc của vi-rút
Có hai chủng HIV là HIV-1 (bắt nguồn từ tinh tinh) và HIV 2 (bắt nguồn từ một loài khỉ nhỏ ở châu Phi có tên Sooty Mangabey). HIV-1 có khả năng lây truyền cao và trên phạm vi toàn cầu. Các nhà nghiên cứu cho rằng, ở giai đoạn lây nhiễm đầu tiên của chủng HIV-1 sang người vẫn ở mức độ nhẹ và thậm chí những con vi-rút này bị tiêu diệt bởi hệ miễn dịch của con người.
Nhưng càng về sau, HIV phát triển đột biến, phức tạp, kết hợp lại với nhau và làm suy giảm hệ miễn dịch của con người. Cho đến đầu những năm 80 của thế kỷ trước, khi mà trường hợp đầu tiên thế giới công nhận bệnh nhân mắc HIV thì loại vi-rút này đã trở thành án tử hình dành cho người bệnh.
Ca mắc HIV/AIDS đầu tiên trên thế giới
Ca HIV/AIDS đầu tiên trên thế giới là người đến từ Kinshasa, Thủ đô nước Cộng hòa Dân chủ Công Gô, sau khi các nhà khoa học phân tích mẫu mô được bảo quản vào năm 1959. Đến Năm 1969, căn bệnh AIDS lâm sàng được phát hiện đầu tiên ở Mỹ của gái mại dâm sống tại Missouri. Nhiều bằng chứng cho thấy, đại dịch AIDS đã lan nhanh khắp châu Âu sau Chiến tranh thế giới thứ 2. Các nhà khoa học cho rằng, bệnh dịch lây lan chủ yếu do việc dùng lại bơm kim tiêm.
Trường hợp điển hình cho việc lây truyền HIV/AIDS
Trên chuyến bay từ Pháp đến Canada, tiếp viên hàng không Gaetan Dugas bị phỉ báng là con bệnh lây truyền AIDS. Dugas không phải là người đầu tiên nhiễm vi-rút HIV ở Mỹ nhưng chính vì đời sống cá nhân phức tạp, quan hệ bừa bãi, thói quen lui tới nhà tắm đồng tính và được thường xuyên đi lại giữa thành phố lớn ở châu Âu là những nguyên nhân khiến nhân viên hàng không này lây truyền bệnh cho người khác. Việc này diễn ra trong suốt những năm 1980, Gaetan Dugas qua đời năm 1984 do suy thận nghiêm trọng.
Ngụy trang
HIV/AIDS đáng sợ hơn những căn bệnh khác do khả năng của nó dễ dàng xâm nhập vào hệ thống miễn dịch và làm suy giảm nhanh chóng. Khi vi-rút HIV xâm nhập vào hệ thống, nó được che giấu trong phân tử đường carbonhydrate, đánh lừa cơ thể chúng ta khiến hệ thống miễn dịch nhầm tưởng loại vi-rút này là một chất dinh dưỡng.
Ngày nay, các nhà khoa học đã nghiên cứu thành công một loại vắc-xin tổng hợp để giúp cơ thể chúng ta nhận ra loại vi-rút này và hệ thống miễn dịch tấn công nó ngay từ bước đầu tiên xâm nhập vào cơ thể.
Người nổi tiếng
Nhiều người nổi tiếng đã qua đời vì bệnh AIDS, có thể kể đến như ngôi sao quần vợt Arthur Ashe, nữ hoàng Freddy Mercury. Điều đáng nói là những người này cùng đa số những bệnh nhân mắc AIDS bị lây truyền, thông qua việc truyền máu đơn giản không phải do quan hệ tình dục bừa bãi.
Trường hợp nổi tiếng nhất nhiễm vi-rút HIV/AIDS và vẫn sống khỏe mạnh đó là Huấn luyện viên Magic Johnson, người thường xuyên xuất hiện trên truyền hình thể thao, mặc dù ông mang trong mình HIV hơn 20 năm.
Truyền nhiễm chủ động
Chiến tranh sinh học được biết đến từ thời cổ đại, những kẻ xâm lược thường quăng xác chết người bị dịch hạch lên thành lũy và vào dân thường. HIV/AIDS cũng được sử dụng với mục đích như vậy trong thời kỳ chiến tranh. Trong hệ thống nhà tù ở Nam Phi, nỗi khiếp sợ bao trùm khi thế lực cai trị tàn ác lấy việc chích máu có HIV vào tù nhân làm hình phạt.
Miễn dịch
Liệu có người có khả năng miễn dịch với HIV/AIDS? Các nhà khoa học đã phát hiện ra có ít nhất hai sự thích nghi khác nhau khi HIV thâm nhập vào cơ thể. Một là đẩy lùi sự lây nhiễm ngay quá trình đầu tiên và hai là giữ HIV và phát triển thành AIDS. Trên thực tế, có rất ít người có khả năng này, trong cơ thể họ có protein khác so với những người bình thường, protein này có khả năng đẩy lùi sự xâm nhập của vi-rút HIV. Các nhà khoa học đang tiến hành nghiên cứu phát triển loại protein này để ngăn chặn sự tiến triển HIV.
Trường hợp của Geoffrey Bower
Năm 1984, luật sư trẻ tuổi Geoffrey Bower đang làm việc tại Baker&MacKenzie, một trong những tập đoàn lớn nhất thế giới. Không lâu sau đó, anh bắt đầu có những triệu chứng của AIDS.
Và ngay lập tức Bower bị sa thải, Bower không xin được việc làm ở bất cứ nơi đâu với căn bệnh của mình. Bower đã làm đơn lên Tiểu bang New York về quyền của con người và Geoffrey Bower được ghi nhận là một trong những trường hợp đầu tiên đấu tranh vì bị phân biệt đối xử trong lịch sử pháp lý.
Phương pháp điều trị HIV/AIDS mới
Thời gian gần đây, các phương tiện truyền thông thường xuyên cập nhật những bước tiến mới của khoa học trong điều trị HIV/AIDS, công cuộc điều trị sắp mở ra hướng mới với hàng triệu bệnh nhân trên toàn thế giới.
Câu chuyện về Timothy Brown, người đã sống với căn bệnh HIV hơn một thập kỷ. Khi ông được chẩn đoán mắc bệnh bạch cầu, các bác sĩ đã tiến hành cấy ghép tủy xương, sử dụng tủy từ một người hiến tặng có khả năng miễn dịch với HIV. Và sau quá trình điều trị, Timothy Brown xuất viện hoàn toàn khỏe mạnh và đặc biệt đã loại bỏ hoàn toàn vi-rút HIV trong mình.
Trường hợp ở Mississippi, một em bé được sinh ra bởi người mẹ dương tính với HIV, em bé này đã được chữa khỏi sau khi điều trị tích cực bằng các loại thuốc kháng vi-rút ngay sau khi sinh. Đến nay, bé đuợc 3 tuổi và hoàn toàn không còn dấu vết gì của căn bệnh này. Đây là hy vọng cho những người đang mắc căn bệnh HIV/AIDS về một phương pháp điều trị hiệu quả trong tương lai không xa.
7 dấu hiệu nhiễm HIV ban đầu ở nam giới
7 dấu hiệu nhiễm HIV ban đầu ở nam giới
Thứ tư 17/09/2014 14:00
Khi một người nhiễm virus suy giảm miễn dịch ở người (HIV), người ấy sẽ dương tính với HIV và HIV sẽ gây ra AIDS. Hội chứng đặc biệt này rất nghiêm trọng bởi vì nó vô hiệu hóa dần dần cơ thể của bệnh nhân trong việc chống lại bất kỳ loại bệnh tật nào. Hãy chú ý đến các triệu chứng ban đầu của hội chứng này để việc điều trị có thể được bắt đầu sớm.
Dưới đây là một vài triệu chứng nhiễm HIV ban đầu phổ biến ở nam giới. Bạn nên chú ý kỹ đến những dấu hiệu này nếu thấy mình có những biểu hiện tương tự và đến gặp bác sĩ ngay.
Bị sốt từ nhẹ đến vừa
Bị sốt là một trong những dấu hiệu sớm nhất và cũng phổ biến nhất của việc nhiễm HIV ở đàn ông. Cơn sốt có thể đến sớm ngay sau khi đã nhiễm HIV. Thông thường, cơn sốt thường là nhẹ cho đến trung bình.Nhiệt độ thường vượt quá 38 độ C. Bệnh nhân có thể gặp các triệu chứng sốt như ra mồ hôi và ớn lạnh. Triệu chứng sốt này có thể tiếp tục trong gần 2 tuần trước khi hết.
Nhức đầu
Nhìn chung, đàn ông nhiễm HIV sẽ có những giai đoạn nhức đầu thường xuyên kèm với cơn sốt. Cường độ của những cơn nhức đầu này có thể xuất hiện trong bất kỳ giai đoạn nào của cơn sốt, từ nhẹ đến vừa.Nhức đầu do HIV có thể trông tương tự như những cơn nhức đầu thông thường khác. Bạn sẽ triệt tiêu được cơn nhức đầu bằng sự trợ giúp của aspirin, ibuprofen hoặc acetaminophen.
Giảm sức chịu đựng và mệt mỏi không rõ nguyên do
Nhiều người đàn ông nhiễm HIV có thể trải qua những thay đổi không rõ nguyên do trong các mức năng lượng. Họ có thể sẽ thấy mức năng lượng hoặc sức chịu đựng giảm, dẫn đến mệt mỏi. Ngay cả với một ngày làm việc bình thường cũng có thể làm cho họ cảm thấy mệt mỏi và kiệt sức.
Phát ban trên da
Một triệu chứng HIV sớm và cũng quan trọng ở người đàn ông bị nhiễm HIV có thể có là phát ban trên da, đặc biệt là ở vùng ngực. Một số bất thường khác trên da cũng có thể được nhận thấy trong giai đoạn đầu của việc nhiễm bệnh.Phát ban trên da xuất hiện giống như một miếng vá và có thể nhận thấy rõ ràng do nó sẫm hơn so với những vùng da xung quanh. Một số đàn ông cũng có thể phát triển việc phát ban trên da đi kèm với ngứa và cảm giác nóng rát. Phát ban da thường biến mất trong vòng một vài tuần.
Sưng hạch bạch huyết
Một dấu hiệu nhiễm HIV ban đầu và cũng rất phổ biến ở nam giới là số lượng các tuyến bạch huyết bị sưng. Viêm hoặc sưng có thể xảy ra trong một hoặc nhiều hạch bạch huyết.Vùng bị nhiễm thường thấy là cổ và nách. Đa phần, việc viêm hoặc sưng sẽ không gây bất kỳ những khó chịu và đau đớn gì, ngay cả khi bạn chạm vào những hạch bạch huyết đó. Thế nên, thường họ hay bị nhầm lẫn với những bệnh khác.
Đau cơ và khớp
Một triệu chứng nhiễm HIV khác phổ biến ở nam giới là đau ở cơ và khớp. Ngoài ra, cũng có thể trải nghiệm đau nhức cơ thể và theo thời gian có thể trở nên nghiêm trọng hơn. Triệu chứng này có thể ảnh hưởng đến công việc hàng ngày. Người bị nhiễm cần phải nghỉ ngơi giữa quá trình làm việc.
Đau họng
Đàn ông bị nhiễm HIV cũng có khả năng bị đau họng, như là một dấu hiệu của triệu chứng HIV ban đầu. Bạn nên xử lý nó đúng cách nếu không nó sẽ gây cho bạn sự khó chịu vô cùng. Nó cũng có thể gây khó khăn cho bạn khi nuốt thức ăn. Một số người có thể bị ảnh hưởng bởi vấn đề chán ăn.