Tổng quan về viêm gan siêu vi B và viêm gan C
Tổng quan về viêm gan siêu vi B
Viêm gan siêu vi B là một số dạng bệnh viêm gan do virus (siêu vi trùng) viêm gan B (HBV) gây ra, truyền nhiễm theo đường máu và sinh dục lây đến gần 1 phần 3 dân số trên toàn thế giới, nhiều nhất tại các nước đang phát triển.
1. Siêu vi trùng HBV (virus viêm gan B)
HBV thuộc loại siêu vi trùng (hay virus) Hepadna với khả năng tồn tại cao. HBV bền vững với nhiệt độ :100 oC virus sống được 30', ở -20 oC sống tới 20 năm, HBV kháng ete (eter), nhưng bất hoạt trong formalin (fócmon). Xét nghiệm máu có thể có 3 loại HBV với kích thước cỡ 22nm, 42nm và 22-200nm. Kháng nguyên HBcAg chỉ có ở virus kích thước 42nm. Trong máu bệnh nhân có cả hạt nhiễm và không nhiễm (virion). Các hạt không nhiễm không có bộ gene của virus (dsDNA) nên không có khả năng gây bệnh. Nồng độ các hạt không nhiễm có thể tới 1010 virion/ml. Vì vậy có tới 65% bệnh nhân có HBsAg không có triệu chứng bệnh, 35% có các triệu chứng của viêm gan.
Bộ gene gồm một DNA có phần gập đôi, khoảng 3.2 kilo cặp base, tạo nên các antigen:
- HBsAg (kháng nguyên bề mặt): thuộc lớp vỏ của HBV - dùng trong xét nghiệm máu để biết có HBV trong cơ thể.
- HBcAg (kháng nguyên lõi): thuộc lớp lõi của HBV - dùng để biết HBV đang phát triển.
- HBeAg (kháng nguyên nội sinh): nếu có trong máu bệnh nhân đang có khả năng lây rất cao.
- gen X : có thể là nguyên nhân tạo ung thư gan.
- gen P.
Sau khi HBV nhập vào cơ thể, hệ miễn dịch sẽ tạo kháng thể cho từng kháng nguyên của HBV (xem hình). Một tuần hay một tháng sau khi nhiễm virus, HBsAg xuất hiện trong máu, tiếp theo là HBeAg và kháng thể IgM và IgG kháng HBcAg (anti-HBc). Khi HBsAg biến mất, thì kháng thể chống sAg (anti-HBs) mới xuất hiện.
Một khi anti-HBs xuất hiện người bệnh được coi như hồi phục, trở thành miễn nhiễm đối với HBV và không còn lây bệnh qua người khác. Một số bệnh nhân không tạo được kháng thể này và tiếp tục mang mầm bệnh HBsAg, sẽ có thể lây cho người khác.
Kháng thể anti-HBc có hai loại: IgM trong thời kỳ bị nhiễm virus cấp tính và IgG trong thời kỳ chuyển tiếp. Nếu anti-HBc IgG không hạ xuống và có HBsAg có nghĩa bệnh nhân đang bị dạng viên gan mạn tính.
HBeAg dương tính là dấu hiệu cho thấy virus đang nhân lên mạnh mẽ, bệnh nhân có khả năng lây cao, trường hợp này cần điều trị. Khi thử nghiệm thấy anti-HBe thì có tiên lượng tốt hơn và khả năng lây không nhiều.
Hiện nay, có xu hướng căn cứ vào định lượng HBV DNA để làm căn cứ điều trị, tuy nhiên điều này chưa được hoàn toàn khẳng định.
2. Dịch tễ học
Tại Hoa Kỳ: Hằng năm khoảng 200.000 người mới mắc bệnh HBV, khoảng 1-1,25 triệu người có siêu vi trùng viêm gan B trong máu. Bệnh có nhiều hơn ở dân Mỹ gốc Phi, dân Hispanic và người gốc châu Á, một số khác hay bị HBV là dân Eskimo, dân gốc đảo Thái Bình Dương và thổ dân Úc. HBV là nguyên nhân của 5-10% bệnh hoại gan mạn tính và 10-15% ung thư gan. HBV làm khoảng 5.000 người chết mỗi năm, nhiều hơn ở tuổi trên 12 (lý do có lẽ là vì sinh hoạt tình dục bắt đầu nhiều hơn sau tuổi này). các yếu tố nguy cơ khác gồm sử dụng thuốc cocaine và các loại thuốc cấm chích mạch, nhiều bạn tình, ly dị, trình độ giáo dục thấp.
3. Phân loại giai đoạn
3.1. Viêm gan cấp tính
Thời gian ủ bệnh từ 1 - 6 tháng. Một số bệnh nhân có cảm giác như bị cảm nhẹ, đôi khi không biết mình bị HBV. Một số khác bị vàng da, mệt mỏi, đau nhức, buồn ói, chán ăn, sốt nhẹ, biến đổi cảm giác (hiện tượng đặc biệt là người ghiền thuốc lá tự nhiên không thích mùi thuốc lá), đau bụng (dưới sườn bên phải). Những trường hợp bị viêm nặng sẽ đưa đến gan to, ngầy ngật, khó ngủ, mê muội, lãng trí hoặc bất tỉnh.
Biểu hiện lâm sàng: Tăng nhiệt độ, vàng da (1 tuần sau khi bị nhiễm và có thể kéo dài đến 1-3 tháng), gan to, lách to. Hiếm khi thấy bàn tay ửng đỏ hoặc "spider nevi" (mạch máu li ti kết toả thành hình nhện như hoa thị trên da).
3.2. Viêm gan mạn tính
Phần lớn khi bị viêm mạn tính cảm thấy bệnh nhân hoàn toàn bình thường. Một số bị viêm mạn tính nặng thì tiếp tục bị các triệu chứng viêm cấp như mệt mỏi, chán ăn, đau bụng, và suy gan.
Biểu hiện lâm sàng: Gan to, bàn tay ửng đỏ, spider nevi. Khi bị biến chứng xơ gan có thể bị ứ nước trong bụng, vàng da, loãng máu, chảy máu trong dạ dày, tĩnh mạch toả lớn từ rốn (do tăng áp làm giãn tĩnh mạch cửa gan), nam vú lớn như vú nữ, tinh hoàn teo nhỏ (vì gan yếu làm thay đổi cân bằng của các hormone giới tính).
4. Biến chứng
- Suy gan.
- Xơ gan.
- Ung thư gan.
5. Điều trị
Việc điều trị chủ yếu là ngăn chặn sự sinh sôi, nhân lên của virus hoặc các chất làm rối loạn quá trình tổng hợp, tự nhân lên của virus.
Lưu ý: Khi nhiễm bệnh, cần tăng cường sức khỏe và tính đề kháng của cơ thể bằng chế độ ăn uống, chú ý đến các loại thực phẩm có lợi cho gan.
Hạn chế uống rượu vì rượu không những gây ra xơ gan mà còn hỗ trợ quá trình sao chép, sinh sản của virus viêm gan nên làm tăng nhanh số lượng virus có trong máu và làm giảm khả năng chịu đựng của tế bào gan trước sự tấn công của virus.
5.1. Xét nghiệm máu
- Theo dõi tình trạng của gan.
Bảng sau đây là thí dụ thử nghiệm gan của một bệnh nhân viêm gan mạn tính.
5.2. Sinh thiết gan
5.2.1. Thuốc
5.2.1.1. Thuốc Tây
Các thuốc sau đã được FDA (Cục quản lý dược phẩm Hoa Kỳ) chứng nhận điều trị viêm gan virus B
- Thuốc uống: lamivudine (Epivir), adefovir (Hepsera), telbivudine (Tyzeka), entecavir (Baraclude), tenofovir (Viread,topflovir).
- Thuốc tiêm: alpha-2a, pegylated interferon alfa-2a (Pegasys).
Một số thuốc hỗ trợ điều trị khác: có tác dụng tăng cường chức năng gan (như Artichaux, Methionin, Arginin, Ornithine Silymarin, Nissen, Omitan, các vitamin B, C, E...).
5.2.1.2. Thuốc cổ truyền
- * Thuốc nam Siro Hebevera với thành phần chủ yếu là cây chó đẻ răng cưa, cà gai leo đã góp phần chữa khỏi được 27 - 59% người bị nhiễm HBV.
- * LIV-94 (liver) là loại thuốc bổ gan tiêu độc hoàn toàn từ dược liệu Việt Nam đã được thử nghiệm thành công.
6. Tiên lượng
* Trường hợp bị HBV từ người mẹ có mầm bệnh lây qua nhau khi sanh: Nếu mẹ có HBsAg thì tỉ lệ truyền cho con khoảng 20%. Nếu mẹ có HBcAg thì tỉ lệ truyền cho con là khoảng 90%, nếu mẹ có HBeAg thì con dễ bị viêm gan mãn tính. Tuy nhiên điều này hoàn toàn có thể được ngăn chặn, nếu tiêm vắc xin cho trẻ trong vòng 12 giờ sau khi sinh.
Trường hợp bị HBV do lây khi đã trưởng thành: Một số ít có thể bị viêm mạn tính nhưng khả năng bị biến chứng không nhiều.
7. Phòng ngừa
Lịch trình chủng ngừa tại Úc
Nguồn: Trung tâm chủng ngừa Úc.
Các tác nhân phá hỏng hệ miễn dịch
Thanh Niên Online – <abbr title="2014-05-14T09:25:26Z" style="border: 0px; color: rgb(125, 125, 125); font-family: Arial, Georgia, Times, 'Times New Roman', serif; font-size: 12px; line-height: 26.597999572753906px;">Thứ tư, ngày 14 tháng năm năm 2014
(TNO) Ngoài những thói quen xấu, một số tác nhân sau có thể làm suy yếu hệ miễn dịch của cơ thể, theo Womenshealthmag.
Không khí ô nhiễm
Sống trong môi trường đầy khói bụi sẽ gây hệ lụy cho phổi. Nếu như trước đây bệnh phổi phát sinh phần lớn là do lao, thì hiện nay, người mắc các bệnh như viêm phổi, phế quản, nấm phổi, hen, dị ứng là do khói bụi…
Nghiên cứu đã phát hiện ra rằng không khí bẩn ngăn chặn các tế bào T (tế bào cần thiết cho hệ thống miễn dịch) và là nguyên nhân gây ra tình trạng viêm. Nếu không thể kiểm soát được chất lượng không khí bên ngoài, bạn cần thiết đầu tư một máy lọc không khí trong nhà để có được môi trường trong lành và dễ chịu tại nơi sinh sống.
Ngồi cả ngày
Nếu bạn là nhân viên văn phòng, việc dành phần lớn thời gian ngồi trên ghế là điều không thể tránh khỏi. Đây chính là nguyên nhân làm chậm tốc độ trao đổi chất của cơ thể khiến việc hấp thụ các chất dinh dưỡng diễn ra chậm hơn so với lúc bình thường, tiến sĩ, bác sĩ Joel Fuhrman (người Mỹ), tác giả của cuốn Super Immunity cho biết.
Sau 1 tiếng rưỡi ngồi làm việc, hãy đứng dậy, rời khỏi ghế và di chuyển ra khỏi phòng khoảng 5-10 phút. Các vận động nhỏ ấy sẽ kích hoạt cơ bắp và thúc đẩy sự trao đổi chất của cơ thể.
Mỹ phẩm
Da hấp thụ các loại kem nền, kem che khuyết điểm, son môi dùng để trang điểm suốt cả ngày và điều này rất có hại. Các chuyên gia sức khỏe cho biết một số mỹ phẩm chứa các thành phần nhân tạo (có thể gây độc hại) như sodium lauryl, và hệ thống miễn dịch không thể phá vỡ các thành phần này, chúng sẽ thâm nhập vào bên trong và gây ra những hệ lụy khôn lường. Nếu có thể, hãy chuyển sang sử dụng mỹ phẩm có nguồn gốc tự nhiên để bảo vệ hệ thống miễn dịch
Ăn nhiều Junk food
Junk food là tiếng lóng để chỉ những đồ ăn có mức dinh dưỡng thấp nhưng lại có quá nhiều chất “không tốt” như đường, mỡ và muối có hại cho cơ thể, chúng gồm: khoai tây chiên, pizza, bánh kẹo, các loại snack, nước ngọt…
Việc tiêu thụ thường xuyên các loại thực phẩm này sẽ làm suy yếu các tế bào T và B trong cơ thể - được xem là cỗ máy chiến đấu chống lại bệnh tật. Tiến sĩ Susan Blum (người Mỹ), tác giả của cuốnThe Immune System Recovery Plan khuyến cáo nên ăn các loại ngũ cốc nguyên hạt, trong đó chứa nhiều chất xơ giúp bảo vệ hệ thống miễn dịch.
Thiếu ngủ
Nếu cơ thể không sản xuất đủ melatonin trong khi ngủ, hệ thống miễn dịch không thể tạo đủ tế bào máu trắng để chống đỡ vi khuẩn và phục hồi cơ thể, tiến sĩ Fuhrman cho biết. Chính vì vậy nên ngủ từ 7-8 tiếng mỗi ngày. Thời gian ngủ là rất cần thiết để giúp cơ thể phục hồi sức lực sau ngày làm việc mệt mỏi.
Ăn quá nhiều chất đạm
Quá nhiều protein, đặc biệt là từ động vật sẽ khiến cơ thể sản xuất nhiều hormone IGF1, được biết đến có tác dụng thúc đẩy quá trình lão hóa và cản trở hệ thống miễn dịch. Theo các chuyên gia, hãy khắc phục bằng cách tiêu thụ lượng calo từ thức ăn động vật không quá 10% hằng ngày.
Cô đơn
Người cô đơn có xu hướng trở nên thiếu mạnh mẽ khi đối mặt với căng thẳng, do đó hệ thống miễn dịch cũng bị ảnh hưởng, Sheldon Cohen, tiến sĩ, nhà tâm lý học tại ĐH Carnegie Mellon (Mỹ) cho biết.
Hãy khắc phục điều này bằng cách mở rộng các mối giao tiếp với bạn bè, người thân hay đồng nghiệp. Đã có nhiều bắng chứng cho thấy những người quan hệ với thế giới xung quanh tốt thường có sức đề kháng cao có thể chống lại nhiều bệnh nhiễm trùng.
Căng thẳng
Căng thẳng kinh niên làm tăng nồng độ cortisol, giảm nồng độ hormone như testosterone và estrogen. Khi nồng độ hormone mất cân bằng, hệ thống miễn dịch không thể chống trả trước các mối đe dọa đến sức khỏe.
Chế độ ăn không đủ chất béo tốt
Nhiều chuyên gia dinh dưỡng cho biết việc hạn chế tiêu thụ béo trans và chất béo bão hòa là điều cần thiết để duy trì sức khỏe tối ưu. Song song đó, cơ thể cũng cần các chất béo lành mạnh từ cá, bơ và các loại hạt.
Đây là nhóm chất béo có đặc tính kháng viêm và giúp điều tiết hệ thống miễn dịch hoạt động suôn sẻ. Để làm được điều này, tránh ăn các loại thực phẩm chế biến, hạn chế tiêu thụ các loại thịt động vật; đồng thời tăng cường bổ sung các loại thực phẩm như cá hồi, cá mòi, hạnh nhân, cải xoăn.
Yoga
Bất kỳ bài tập thể dục nào cũng mang lại lợi ích cho sức khỏe và đặc biệt là yoga có tác dụng hữu hiệu với khả năng bảo vệ hệ miễn dịch của cơ thể. Yoga kích thích máu tuần hoàn, hỗ trợ tiêu hóa, ổn định thần kinh, cải thiện hệ thống nội tiết… những yếu tố góp phần tăng cường hệ thống miễn dịch, Surya Kolpakov, một bác sĩ chuyên khoa yoga tại Trung tâm Newton, Massachusetts (Mỹ) cho biết.
Ngọc Khuê
</abbr>