Tháo gỡ từ khâu nào?
SKĐS - 08/07/2015 08:00
SKĐS - Dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con (PLTMC) là một trong những giải pháp quan trọng góp phần đẩy lùi đại dịch HIV/AIDS...
Dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con (PLTMC) là một trong những giải pháp quan trọng góp phần đẩy lùi đại dịch HIV/AIDS, với những biện pháp can thiệp tích cực, điều trị dự phòng sớm giúp giảm đáng kể số trẻ bị phơi nhiễm HIV từ mẹ. Tuy nhiên, hiện nay công tác PLTMC vẫn còn gặp nhiều khó khăn.
Tư vấn cho phụ nữ mang thai. (Ảnh minh họa)
Sự nỗ lực và kết quả ban đầu
Thực hiện dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con cho phụ nữ mang thai là vô cùng quan trọng. Cho đến nay, các can thiệp về PLTMC gồm có: tư vấn xét nghiệm HIV cho phụ nữ mang thai (PNMT); dự phòng bằng thuốc ARV cho PNMT nhiễm HIV và con của họ; tư vấn nuôi dưỡng an toàn cho trẻ sinh từ mẹ nhiễm HIV; chăm sóc theo dõi trẻ sinh từ mẹ nhiễm HIV (dự phòng mắc các bệnh nhiễm trùng cơ hội bằng Cotrimoxazole; xét nghiệm chẩn đoán sớm nhiễm HIV; điều trị thuốc ARV khi trẻ nhiễm HIV); chăm sóc và điều trị tiếp tục PNMT/mẹ nhiễm HIV tại các cơ sở điều trị HIV/AIDS...
Việc trẻ không lây nhiễm HIV từ mẹ sang con phụ thuộc rất nhiều vào quá trình điều trị. Nếu phụ nữ mang thai được phát hiện sớm nhiễm HIV ở 3 tháng đầu thai kỳ và áp dụng các biện pháp sinh đẻ và chăm sóc thích hợp, dùng thuốc dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con theo đúng hướng dẫn sẽ giảm đáng kể tỷ lệ trẻ bị nhiễm HIV từ mẹ (từ tỷ lệ 30-40% khi chưa được can thiệp xuống còn dưới 5%, thậm chí dưới 2%).
Chương trình PLTMC đã được triển khai từ cuối năm 2004, cho đến nay đã triển khai trên 63/63 tỉnh, thành phố. Tuy nhiên, độ bao phủ tuyến huyện chỉ ở mức 30%. Hướng dẫn quốc gia về PLTMC đã được ban hành và được áp dụng thống nhất toàn quốc từ năm 2007. Phác đồ điều trị PLTMC được liên tục cập nhật nhằm điều trị sớm, dùng các loại thuốc tối ưu để giảm tối đa khả năng lây truyền HIV từ mẹ sang con.
Chương trình PLTMC tại Việt Nam đã tác động đến tỷ lệ lây truyền HIV từ mẹ sang con. Theo báo cáo của Cục Phòng chống HIV/AIDS (Bộ Y tế), hàng năm, Việt Nam có khoảng gần 2 triệu phụ nữ mang thai. Thành phố Hồ Chí Minh là địa phương triển khai tốt nhất chương trình PLTMC. Tỷ lệ lây truyền HIV trong số trẻ được xét nghiệm sớm giảm mạnh từ 6,2% năm 2009 xuống 3,8% năm 2014.
Khó khăn và thách thức
Tuy nhiên, trên thực tế vẫn còn có nhiều phụ nữ mang thai chưa tiếp cận các DPLTMC. Nguyên nhân chủ yếu là do người nhiễm HIV còn thiếu thông tin, kiến thức về phòng, chống HIV/AIDS nói chung và DPLTMC nói riêng nên chưa chủ động tìm kiếm dịch vụ. Có nhiều trường hợp phụ nữ mang thai nhiễm HIV vì lo sợ cộng đồng xa lánh, sợ bị phân biệt đối xử nên đã giấu bệnh và chỉ khi gặp khó khăn trong chuyển dạ, phải can thiệp bằng phẫu thuật, cán bộ y tế mới phát hiện tình trạng nhiễm HIV, dẫn đến kết quả không mong muốn là đứa trẻ được sinh ra có nguy cơ cao bị nhiễm HIV từ mẹ.
Ngoài ra, tình hình dịch HIV hiện đang có xu hướng làm gia tăng PNMT nhiễm HIV (tỷ lệ nhiễm mới HIV ở nữ giới tăng, đang dần có xu hướng chuyển từ nhóm tuổi từ 24-29 sang trên 30 tuổi, lây qua đường tình dục tăng). Nguyên nhân chủ yếu do: độ bao phủ xét nghiệm (XN) còn hạn chế, XN trước sinh thấp và XN muộn làm tăng nguy cơ LTMC; Một số cán bộ y tế chưa nhận thức được lợi ích của xét nghiệm HIV sớm trong dự phòng LTMC cho PNMT; Can thiệp PLTMC chưa được thực hiện thường quy như là một phần của gói dịch vụ CSSKSS toàn diện, còn mang định hướng dự án; Kỳ thị và phân biệt đối xử vẫn là rào cản cho việc tiếp cận với dịch vụ DPLTMC; Tình trạng mất dấu sau khi sinh còn cao dẫn đến việc khó khăn trong theo dõi tình trạng trẻ nhiễm HIV từ mẹ; Các yếu tố khác dẫn đến không XN HIV hoặc XN muộn hoặc biết kết quả XN muộn (tập tục đẻ tại nhà tại các tỉnh miền núi; Thiếu thông tin về hiệu quả của các can thiệp PLTMC; Thời gian trả kết quả XN lâu; Kỳ thị và phân biệt đối xử; Kinh phí XN HIV: phần đa do người bệnh tự chi trả hoặc dự án hỗ trợ).
Chương trình PLTMC đã cho thấy hiệu quả cao trong việc giảm tình trạng lây truyền HIV từ mẹ sang con, có thể đạt được mục tiêu giảm tỷ lệ PLTMC dưới 2%. Song, việc triển khai chương trình PLTMC hiệu quả còn gặp nhiều khó khăn, do tỷ lệ phụ nữ mang thai nhiễm HIV tiếp cận với các can thiệp PLTMC còn thấp, muộn; Nguy cơ mất dấu trong quản lý ca bệnh cao; Nguồn tài chính cho XN HIV không được đảm bảo bền vững. Nên chăng, chúng ta cần mở rộng XN tại xã phường, XN ở nơi có dịch HIV cao và trung bình; Điều trị ngay cho phụ nữ mang thai nhiễm HIV không phụ thuộc vào CD4, giai đoạn lâm sàng?
Phát hiện nhiễm HIV trong lúc mang thai và trước khi “vượt cạn” là một áp lực lớn cho thai phụ và gia đình. Tuy nhiên, nếu được phát hiện sớm và tham gia điều trị dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con của mình so ra còn hạnh phúc hơn nhiều, bởi đứa con sắp chào đời sẽ được bảo vệ không bị nhiễm HIV.