Muón nhắn đến nhân vật của câu chuyện như này thì bạn nghĩ sao về người vợ của mình/ Cô ấy là ai, làm gì cho cuộc đời của bạn, suy ngẫm và đừng đau buồn
Thuở xưa có một xứ, dân chúng chẳng chịu tin Phật pháp vì họ cho là mê tín. Bồ Tát Quán Âm vì muốn giáo hóa bọn chúng sanh nghiệp chướng sâu nặng kia, nên hóa hiện một nữ nhân, tay xách giỏ tre, trong có đựng mấy con cá, đi vào thôn xóm rao bán. Người trong thôn xóm thấy cô bán cá mà sao dung nhan mỹ mạo đẹp đẽ dị thường, nên ai cũng lấp lẽm và tranh nhau muốn cưới. Người thì xin cưới về làm dâu, người thì muốn cưới làm vợ, và có ông đòi cưới cho kỳ được dắt về làm hầu. Người ta bu quanh nơi cô càng lúc càng đông, nhất là các cậu thanh niên mò theo sát gót. Cô đi đến đâu cũng như đến đấy, cả ngày, cá bán không được vì người ta ham mua nghười mà thôi. Thấy đã đến lúc, cô nói: Các ông là đông người, còn tôi chỉ có một mình tôi, làm sao làmvợ cho đủ? Nhưng tôi xin dưa ra một đìều kiện, nếu các ông bằng lòng, là ai đọc thuộc lòng phẩm kinh Phổ Môn nội trong ba ngày nhất định thời tôi làm vợ kẻ đó tức thì? Liền tức tốc người làng đi khắp xứ tìm phẩm Phổ Môn về đọc tụng. Sau ba ngày mãn hạn những người đọc thuộc lòng được bốn năm mươi người. Cô bảo: Các ông vẫn còn số nhiều, không nói chắc các ông cũng biết, một mình tôi mà làm vợ cho nhiều người bất tiện vì nhìều lẽ. Vậy tôi xin một lần nữa là ai đọc thuộc lòng quyển kinh Kim Cang nội trong một năm trời, tôi xin chân thành phụng sự người đó là chồng duy nhất của đời tôi. Thế là người ta một lần nữa phải khó khăn, vì văn tự của kinh này lặp đi lặp lại, trùng điệp điệp trùng, quần quấn rắc rối chứ chưa kể chi đến nghĩa lý Bát Nha Ba La. Thế nhưng nghiệp lực nó mạnh lắm. Mãn hạn năm ngày có được mười người trúng tuyển. Cô ta lên tiếng: Cũng vẫn bất tiện thưa các người: Pháp luật hiện hành và luân lý cổ truyền xứ ta, chính ngày hôm nay mà vẫn chưa cho phép một vợ mà mười chồng. Xin quý ngài một lần chót nầy nữa là nếu ai đọc thuộc lòng bộ kinh Pháp Hoa trong hạn bảy ngày chẵn, thời tiện thiếp xin trân trong tuyên bố đem danh dự của kẻ hàng tôm hàng cá ra mà đảm bảo giữ đúng lời hứa đã hứa mấy lần trước. Lần này người ta gặp phải cái khó đặc biệt là tìm cho đủ bẩy quyển và ngồi xếp bằng mà lật từng trang từ đầu chí cuối cho hết bộ kinh Pháp Hoa cũng đã mất bao ngày giờ, huống là học thuộc lòng. Một tuần lễ trôi qua, mãn hạn bảy ngày, vậy mà vẫn có một người đạt được mục đích cuối cùng, vẻ vang nhất đời, đó là chàng thiếu niên họ Mã. Chàng thông minh lịch sự, tiền nhiều, sang trọng. Dĩ nhiên cô bán cá phải giữ lời hứa. Sau một đêm hoa đăng rực rỡ, yến tiệc linh đình, tân nương bỗng phát cơn đau bụng bão dữ dội và chết luôn.
Ôi thôi! Mã thiếu niên tội nghiệp cho chàng biết bao! Chết, chết, đời ai tránh khỏi cái chết! Mà chết như thế này là nghĩa làm sao ? Đời ai chẳng nên đáng sống! Mà sống như thế này là sống để làm gì ? Chết sống như thế này phải có trời đất nào để nại cho thấu tai mới nghe! Mã thiếu niên đã dùng hết tâm cơ ba khoa ứng thi đậu Hoàng giáp cả ba, phần thưởng xứng đáng nhất là được một mỹ nhân tuyệt thế. Đó là hạng phúc chứ gì ? Nhưng hạnh phúc đã chớp cánh bay bổng rồi. Bay đi mà không ngày đậu lại, cách biệt vĩnh viễn. Giờ đây và tại đây chỉ còn một giả danh hạnh phúc và một thây chết nằm cứng đờ như những thây chết khác không hơn không kém. Sau khi tống táng xong, chàng ta tự hận là mình bạc phước. Để tránh bạc phước ậy, chàng thề trọn đời chẳng màng cưới vợ nữa. Rồi chàng tự nhìên sang qua sống một đời sống của những kẻ thất tình; dẫn thân đây đó như kẻ si cuồng. Một hôm bất giác chàng đi tình cờ gặp một vị lão Tăng mặc áo tím, lão nhận thấy nơi anh ta có bộ dạng âu sầu khổ não nên Ngài mới gạn hỏi. Thì Mã quận đem hết đâu đuôi chuyện mới xảy ra mà thưa. Nghe xong Ngài bảo: Người nữ nhân ấy là Bồ Tát Quán Thế Âm hóa thân, vì Bồ Tát thấy bọn các ngươì chẳng tin Phật pháp nên mới thị hiện nữ nhân để giáo hóa đấy thôi. Ngài tiếp: Trong kinh Phật dạy: Trước lấy tình dục câu dắt nó, sau mới khiến vào Phật trí vậy. Mã quân trở về nhà và thuật lại việc mình vừa gặp lão Tăng bảo như thế cho bà con nghe. Nhưng họ chưa tin nên họ quật mồ cạy nắp quan thời trong quan không có chi cả. Do đó dân chúng mới tin, và Phật pháp cũng do đó mà được thịnh hành. Sau vụ nầy được minh bạch, Mã quân cho là mình làm người thế gian cũng không còn ý?ĩa gì nữa, nên ông xuất gia làm Tăng, rồi vào tu đạo trong một hang núi. Về sau người ta đặt tên hang nầy là Mã lang động, tức là hang động chàng họ Mã. Động ấy đến nay vẫn còn.