Tòa ma túy: Mô hình hiệu quả tại Hoa Kỳ

Thứ năm 07/01/2016 09:00

Tòa Điều trị nghiện ma túy (Drug Treatment Court) hay còn được gọi là Tòa ma túy (Drug Court) là một chương trình tổng hợp, kết hợp giữa các giải pháp tư pháp, điều trị, phục hồi và giám sát dựa vào cộng đồng dành cho người nghiện ma túy. Tòa ma túy đầu tiên được hình thành tại thành phố Miami, bang Florida, Hoa Kỳ năm 1989 nhằm ngăn chặn tỷ lệ tái phạm đang ngày càng gia tăng trong những người phạm tội về ma túy nghiêm trọng. Kể từ đó, Tòa ma túy đã phát triển ra toàn Hoa Kỳ, thành một phong trào mang tính quốc gia và được đánh giá là “sáng kiến tư pháp có ý nghĩa nhất” tại Hoa Kỳ trong thế kỷ 20.



Sự phát triển và thành công của Tòa ma túy tại Hoa Kỳ đã là chất xúc tác cho việc phát triển mô hình này tại các nước khác ở châu Âu, châu Mỹ, châu Phi và châu Đại dương. Bài viết này nhằm đưa lại một mô tả tổng quan về mô hình Tòa ma túy, sự phát triển và hiệu quả của mô hình tại Hoa Kỳ; trên cơ sở đó, đưa ra những liên hệ và khuyến nghị cho việc áp dụng mô hình Tòa ma túy tại Việt Nam như là một giải pháp cho vấn đề tội phạm liên quan đến ma túy hiện đang nhức nhối ở Việt Nam cũng như tỷ lệ tái nghiện cao trong những người nghiện ma túy tại Việt Nam.

Việc ra đời của các Tòa Điều trị nghiện ma túy (sau đây gọi tắt là Tòa ma túy)là những nỗ lực nhằm đối phó với sự gia tăng nhanh chóng của việc lạm dụng ma túy, tội phạm và tỷ lệ tái phạm cao tại Hoa Kỳ trong những năm 80 của thế kỷ trước. Chỉ riêng năm 1985 đã có 647.411 người bị bắt vì các hành vi tội phạm liên quan tới ma túy (Rosenthal, 2002). Cho tới năm 1991 đã có hơn 1 triệu người bị phạt tù vì các hành vi vi phạm pháp luật liên quan tới ma túy. Khoảng 59% tù nhân trong các nhà tù liên bang trong năm 1998 là tội phạm ma túy, tăng từ 16% trong năm 1970 (Hennesssy, 2001). Cùng với sự gia tăng nhanh chóng của lạm dụng ma túy và tội phạm giữa những năm 1980, hệ thống tư pháp của Hoa Kỳ cũng trở nên quá tải bởi các vụ án về sử dụng ma túy và các tội phạm có liên quan tới ma túy. Cũng trong thời gian này, có một điều đã được thừa nhận rộng rãi là việc chỉ áp dụng các biện pháp tư pháp hình sự gồm phạt giam, phạt tù hay quản thúc sẽ không pháp vỡ được cái vòng luẩn quẩn: sử dụng ma túy và tội phạm (Hora, Schma, & Rosenthal, 1999; Hora, 2002). Đồng thời, điều trị nghiện ma túy đã được chứng minh là có hiệu quả trong cả việc giảm lệ thuộc ma túy và tội phạm liên quan tới ma túy nếu người nghiện duy trì điều trị trong một thời gian đủ dài (DCPO, 1998).

Tòa Ma túy đầu tiên được thành lập năm 1989 ở Miami, Florida là một sáng kiến kết hợp giữa điều trị nghiện ma túy với các can thiệp tư pháp nhằm giải quyết tình trạng nghiện ma túy, một trong những nguyên nhân gây tái phạm hình sự cao. Tòa ma túy đầu tiên hướng tới việc giám sát hiệu quả những người bị buộc tội sở hữu ma túy đang chờ để xét xử. Cùng với việc phục hồi từ nghiện ma túy, người tham gia chương trình Tòa Ma túy còn có được những lợi ích về kinh tế - xã hội rõ ràng như: giáo dục, việc làm, cải liện mối quan hệ gia đình, cũng như tăng sự tự trọng về giá trị của bản thân (Cooper, 2003).

Qua hơn hai thập kỷ phát triển, Tòa ma túy đã được đánh giá là "sáng kiến tư pháp có ý nghĩa nhất" tại Hoa Kỳ trong thế kỷ 20 (NDCI, 2005). Theo số liệu từ Viện Tư pháp Quốc gia Hoa Kỳ (NIJ, 2015), tính đến tháng 6/2014 đã có hơn 3.400 Tòa Ma túy trên khắp nước Mỹ. Tính từ 1989 tới nay đã có hơn 1,3 triệu người nghiện được điều trị theo mô hình gắn với toà ma tuý. Hiện trung bình mỗi năm có 142.000 nghiện tham gia chương trình Toà ma tuý trên toàn nước Mỹ (NADCP, 2014). Chỉ trong một thời gian ngắn, mô hình Tòa Ma túy đã được phát triển trên toàn nước Mỹ với những điều chỉnh cho phù hợp với điều kiện, nhu cầu và thế mạnh của mỗi địa phương.Sự phát triển và thành công của các Tòa Ma túy tại Hoa Kỳ đã là chất xúc tác cho sự phát triển của các Tòa Ma túy tại Châu Âu, Châu Bắc Mỹ, Nam Mỹ, vùng Ca-ri-bê, Châu Phi và Châu Đại dương (UNODC, 2004). Hiện nay Toà ma tuý đã được vận hành tại 24 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, gồm: Argentina, Australia, Bahamas, Barbados, Bỉ, Bermuda, Brazil, Canada, Cayman Islands, Chile, Costa Rica, Cộng hoà Dominica, Anh, Ireland, Jamaica, Mexico, New Zealand, Na-uy, Panama, Puerto Rico, Scotland, Trinidad-Tobaco, Hoa Kỳ và Wales (GCDTC, 2016)

Khái niệm, mục tiêu và các yếu tố cơ bản

Tòa Ma túy, theo định nghĩa của Hiệp hội quốc gia các chuyên gia về Tòa ma túy của Hoa Kỳ là: "một tòa đặc biệt có trách nhiệm giải quyết các trường hợp tội phạm có liên quan tới lạm dụng chất gây nghiện, thông qua các biện pháp tổng hợp bao gồm: giám sát, xét nghiệm tìm chất ma túy, điều trị nghiện, cùng các biện pháp kỷ luật và động viên khuyến khích kịp thời” (NADCP, 2005).

Tại Hoa Kỳ, nơi pháp luật có thể khác nhau giữa các tiểu bang, thậm chí giữa các thành phố của cùng một tiểu bang, các chính sách và thủ tục đối với các Tòa ma túy cũng không thống nhất. Mặc dù vậy, tất cả các Tòa ma túy tại Hoa Kỳ đều hướng tới một mục tiêu chung là nhằm giải quyết tình trạng lạm dụng rượu và các chất gây nghiện khác cũng như các hoạt động tội phạm có liên quan. Mục tiêu tổng thể này được thể hiện thành các mục tiêu cụ thể hơn, bao gồm: i) Giảm nghiện rượu và lệ thuộc các chất gây nghiện khác; ii) Giảm tái nghiện và tái phạm các hành vi vi phạm pháp luật khác; iii) Giảm tải cho các phiên tòa hình sự có phạm nhân liên quan tới ma túy; iv) Tăng tính trách nhiệm của người vi phạm đối với bản thân họ, với gia đình và xã hội; (v) Tăng cường trao đổi và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của hệ thống tư pháp hình sự, các cơ quan nhà nước và cộng đồng (Supreme Court of Virginia, 2015).

Trong thời kỳ đầu, các Tòa ma túy hướng tới những người vi phạm pháp luật về ma túy lần đầu và không bạo lực hoặc những người có hành vi vi phạm về “lái xe khi đang bị ảnh hưởng của chất gây nghiện” (DWI - Driving while Intoxicated). Tiêu chí "lần đầu" được đưa ra dựa trênlý thuyết dán nhãn với quan điểm cho rằng một khi một người đã bị coi là “tội phạm” thì khả năng để họ hòa nhập hoàn toàn với xã hội sẽ bị mất đi rất nhiều(Makkai, 1998). Vì vậy, việc sử dụng các giải pháp khác thay cho việc đưa một người có vi phạm pháp luật về ma tuý lần đầu ra Toà hình sự sẽ giúp tăng cường khả năng hoà nhập xã hội của họ sau này. Tiêu chí “không bạo lực” được áp dụng đối với người tham gia Tòa ma túy là để các Tòa ma túy được nhận hỗ trợ từ ngân sách liên bang theo quy định tại Luật Kiểm soát Tội phạm bạo lực năm 1994.

Sau này, khi Tòa ma túy đã chứng minh được hiệu quả của nó đối với cả vấn đề sử dụng ma túy và vấn đề tội phạm trong những người vi phạm pháp luật hình sự và có sử dụng ma túy, các Tòa ma túy đã được mở rộng tới cả những đối tượng sử dụng ma túy nhưng bị bắt vì các tội không liên quan tới ma tuý. Theo một nghiên cứu được thực hiện năm 1997 trong 93 chương trình toà cai nghiện ma tuý, tất cả các chương trình này đều hướng tới đối tượng tàng trữ ma tuý. Ngoài ra, 52% hướng tới tội phạm gian lận liên quan tới tân dược gây nghiện, 35% hướng tới tội phạm buôn bán nho ma túy, 24% tội phạm trộm cắp tài sản, 5% tội gian lận thẻ tín dụng/ngân hàng và 4% phạm tội mại dâm (Cooper, 1997).

Người sử dụng ma túy mà có các hành vi vi phạm pháp luật hình sự, nếu tự nguyện tham gia Tòa ma túy sẽ không bị xử tù về hành vi vi phạm pháp luật hình sự cũng như không bị ghi án tích. Nếu không tự nguyện tham gia Tòa ma túy thì sẽ bị xử theo các Tòa hình sự thông thường vì hành vi vi phạm pháp luật của mình.

Bởi sự đa dạng trong việc vận hành các Tòa ma túy giữa các thành phố, các tiểu bang, Bộ Tư pháp Hoa Kỳ đã đưa ra 10 yếu tố cơ bản của Tòa ma túy. Các yếu tố này được xem như là những tiêu chuẩn chung cho một Tòa ma túy hiệu quả tại Hoa Kỳ (BJA, 1997), bao gồm: i) Tòa ma túy lồng ghép các dịch vụ điều trị nghiện rượu và nghiện ma túy với việc xét xử của hệ thống tư pháp; ii) Sử dụng cách tiếp cận, truy tố và bào chữa không đối kháng nhằm tăng cường an toàn xã hội trong khi bảo vệ quyền tố tụng của người tham gia; iii) Người đủ điều kiện tham gia được xác định sớm và nhanh chóng đưa vào chương trình; iv) Toà ma túy giúp cho người nghiện rượu và người nghiện ma túy được tiếp cận một chuỗi liên hoàn các dịch vụ điều trị, phục hồi và các dịch vụ hỗ trợ; v) Việc ngừng sử dụng rượu và ma túy được giám sát chặt chẽ bằng các biện pháp kiểm tra, xét nghiệm; vi) Có một chiến lược lồng ghép để kiếm soát việc đáp ứng của các Toà ma túy đối với sự tuân thủ của người tham gia; vii) Sự tương tác liên tục của Tòa đối với người tham gia chương trình rất quan trọng; viii) Thực hiện giám sát và đánh giá nhằm xác định mức độ đạt được mực tiêu và đo lường hiệu quả của chương trình; ix) Giáo dục liên ngành thường xuyên giúp tăng cường lập kế hoạch, thực hiện và vận hành Tòa ma túy; x) Mối quan hệ chặt chẽ giữa các Tòa ma túy với các cơ quan chính quyền và các tổ chức cộng đồng giúp đẩy mạnh sự hỗ trợ của địa phương và tăng hiệu quả của Tòa.


Kết cấu, vận hành và đầu tư tài chính

Về thời gian, thông thường một chương trình điều trị theo Tòa ma túy sẽ kéo dài từ 12 đến 18 tháng và chia làm 3 hoặc 4 giai đoạn. Ví dụ như chương trình Toà ma tuý của Hạt Thurston, bang Washington gồm 3 giai đoạn như sau:

+ Giai đoạn 1 - Định hướng/Tiếp nhận (3 - 4 tháng): Người tham gia chương trình được tiếp nhận, đánh giá tình trạng nghiện ma túy, lập kế hoạch điều trị, giáo dục về ma túy và đồ uống có cồn, giáo dục đạo đức và tư vấn cá nhân, tư vấn nhóm.

+ Giai đoạn 2 - Tư vấn tăng cường (5 - 8 tháng), bên cạnh các dịch vụ như trong giai đoạn 1, người tham gia chương trình sẽ được dạy nghề, tạo việc làm và giới thiệu, chuyển gửi tới các dịch vụ hỗ trợ khác.

+ Giai đoạn 3 - Chuyển gửi/Giám sát (4 - 6 tháng): người tham gia chương trình sẽ được tư vấn dự phòng tái nghiện, kết nối, chuyển gửi tới các dịch vụ hỗ trợ xã hội trong cộng đồng và xây dựng kế hoạch phục hồi của cá nhân(Thurston County Superior Court, 2015).

Tại tất cả các giai đoạn, người tham gia chương trình phải được xét nghiệm ngẫu nhiên để tìm chất gây nghiện và thực hiện các buổi báo cáo tiến bộ trước cán bộ Tòa án ít nhất là 1 tuần 1 lần. Người nghiện sẽ được ra khỏi chương trình khi hoàn thành tất cả các yêu cầu với mỗi giai đoạn và có ít nhất là 6 tháng liên tục sạch chất gây nghiện, 4 tháng liên tục có việc làm toàn thời gian (hoặc bán thời gian hoặc đi học). Một số chương trình có thêm giai đoạn chăm sóc và giám sát sau khi người nghiện hoàn thành chương trình.

Việc xét nghiệm tìm chất ma túy thường xuyên và ngẫu nhiên là yếu tố then chốt của các chương trình Tòa điều trị nghiện ma túy. Kết quả xét nghiệm là tiêu chí quan trọng để quyết định chuyển một người tới giai đoạn sau hay đưa về giai đoạn trước. Các hình thức kỷ luật, phạt cũng được áp dụng với những người có kết quả xét nghiệm dương tính với chất gây nghiện. Việc phạt có thể dưới hình thức tăng số lần xét nghiệm, số lần giải trình/báo cáo trước Tòa, hay gửi tới các chương trình giải độc cắt cơn, hoặc thậm chí bị phạt giam. Các hình thức khen thưởng, khuyến khích cũng được áp dụng với những người có thành tích, tiến bộ trong điều trị. Các hình thức khen thưởng, khuyến khích có thể bao gồm: biểu dương, giảm thời hạn, giảm số lần phải xét nghiệm tìm chất gây nghiện hay bằng một số món quà nhỏ như: áp phông/áo thun, vé xem các sự kiện thể thao, văn hóa, băng, đĩa, sách... Việc sử dụng các hình thức thưởng, phạt nhằm tăng cường sự tuân thủ chương trình của người nghiện. Những người hoàn thành chương trình sẽ được xóa án tích, giảm án, giảm tiền phạt hoặc giảm phí điều trị...

Các buổi báo cáo tiến bộ là yếu tố quan trọng của các chương trình Tòa điều trị nghiện ma túy. Thông thường các buổi báo cáo tiến bộ sẽ được thực hiện hàng tuần trong giai đoạn đầu, trong các giai đoạn sau thì thưa hơn, có thể hai tuần một lần và sau đó là một tháng một lần. Người tham gia chương trình Toà ma tuý cũng được yêu cầu gặp các nhân viên điều trị hàng tuần, trong suốt thời gian tham gia chương trình (DCCTAP, 1997).

Về vận hành, các chương trình Tòa ma túy được thực hiện với sự phối hợp của các ngành, bao gồm thẩm phán, công tố viên, cảnh sátkhu vực phụ trách quản lý người bị cải tạo không giam giữ, các nhân viên điều trị nghiện, giáo dục, dạy nghề và các nhà lãnh đạo cộng đồng... Một yếu tố cơ bản để phân biệt Tòa ma túy và các tòa hình sự khác là trong Tòa ma túy hành vi vi phạm pháp luật không được xem như hành vi lệch chuẩn về đạo đức mà là hành vi hệ luỵ của việc nghiện và thường là ngoài tầm kiểm soát của người nghiện (Steen, 2002).

Về tài chính, nguồn ngân sách cho các Tòa Ma túy ở Hoa Kỳ bao gồm: ngân sách của liên bang và tiểu bang, hỗ trợ, đóng góp của các nhà hảo tâm và từ lệ phí tham gia chương trình do người nghiện nộp. Theo quy định của luật pháp Hoa Kỳ, ngân sách liên bang không được vượt quá 75% tổng ngân sách hoạt động của Tòa điều trị nghiện ma túy (Violent Crime Control and Law Enforcement Act of 1994, Title V, sec. 2205). Khoản phí mà các cá nhân tham gia chương trình Tòa ma túy phải đóng góp khác nhau theo quy định của từng tiểu bang. Ví dụ, ở Idaho, mỗi cá nhân tham gia Tòa ma túy phải đóng khoản phí tối đa không quá 300 USD/tháng trong khi ở Texas là không quá 1.000 USD, còn ở Indiana, Montana và Missouri là không quá 500 USD.

TS Nguyễn Thị Vân-Bộ LĐTBXH