1.1. Virus gây suy giảm miễn dịch ở ngƣời (Human immunodeficiency
virus – HIV)
1.1.1. HIV là gì?
HIV (Human Immunodeficiency Virus) - virus gây suy giảm miễn dịch ở
người, là loại virus khi xâm nhập vào cơ thể gây hội chứng suy giảm miễn dịch mắc
phải (AIDS), dẫn
đến nguy cơ nhiễm các bệnh cơ hội và làm cho bệnh nhân dễ mắc
phải ưng thư và những tác động do chính HIV gây ra [1].
HIV chủ yếu lây nhiễm các tế bào quan trọng trong hệ thống miễn dịch của
người như là tế bào T trợ giúp (đặc biệt là T CD4+), các đại thực bào và các tế bào
đuôi gai. Lây nhiễm HIV dẫn đến sự giảm số lượng tế bào T CD4+ theo 3 cơ chế
chính sau: Một là, các tế bào nhiễm bị giết chết trực tiếp bởi virut; hai là, tăng tỉ lệ
tế bào chết theo chương trình; ba là, sự giết chết tế bào T CD4+ bị nhiễm bởi tế bào
lympho gây độc CD8. Khi số lượng tế bào T CD4+ suy giảm xuống dưới một mức
nhất định thì quá trình miễn dịch qua trung gian tế bào bị mất, cơ thể dễ mắc các
bệnh nhiễm trùng cơ hội [54].
1.1.2. Đặc điểm của virus HIV
1.1.2.1. Giới thiệu chung
Về nguồn gốc của virus HIV gây suy giảm miễn dịch ở người thì vẫn là
một câu đố đối với các nhà khoa học kể từ khi trường hợp mắc bệnh đầu tiên được
phát hiện đầu những năm 80 của thế kỷ trước.
Ngày nay thì mọi người đều đồng ý rằng HIV có quan hệ họ hàng với virus
gây suy giảm miễn dịch ở khỉ - SIV (simian immunodeficiency virus). Đặc biệt là
công bố vào
năm 1999 của một số nhà nghiên cứu tại Đại học Alabama, họ nhận
thấy rằng HIV-1(một type HIV) rất giống SIV tinh tinh (SIVcpz). Nguồn gốc động vật, thời gian và địa điểm chính xác của sự lây truyền hiện vẫn chưa rõ và là đề tài cho các cuộc khảo sát và tranh luận [21].
HIV thuộc nhóm Lentivirus và thuộc họ Retroviridae.
Lentivirus (lenti có nghĩa là chậm), loài virus đặc trưng bởi thời gian dài ủ
bệnh. Lentivirus có thể truyền thông tin di truyền của mình vào DNA tế bào chủ và
loài duy nhất trong các Retrovirus có khả năng tái bản mà không thông qua phân
chia tế bào [61].
HIV có những đặc trưng của retrovirus:
• Là một loại virus RNA, nhưng có một enzyme phiên mã ngược, mà bản
chất là DNA polymerase phụ thuộc RNA. Với enzyme phiên mã ngược này cho
phép tổng hợp một DNA kép trong tế bào chủ mà retrovirus xâm nhập .
• DNA mới được tạo ra
đều có những đoạn tự lặp lại, có kích thước khác
nhau được gọi là đoạn cuối dài tự lặp lại, nhờ vậy mà gắn được một cách ổn định
trong nhiễm sắc thể của tế bào chủ và trở thành một tiền virus (provirus). Tiền virus
này sẽ như một gen của tế bào và truyền sang cho thế hệ khác khi có sự phân bào,
hoặc được phiên mã thành RNA thông tin, tổng hợp protein của virus để hình thành
một virus hoàn chỉnh.
HIV có các đặc trưng của một Lentivirus :
Phát triển chậm.
Không biến đổi tế bào nhưng lại làm tiêu huỷ tế bào.
Cấu trúc kháng nguyên dễ biến đổi [1], [6].
1.1.2.2. Phân loại HIV
HIV là loại virus có tính biến đổi cao và dễ xảy ra đột biến. Điều này có nghĩa
là sẽ có nhiều chủng HIV khác nhau, thậm chí chúng có thể cùng lây nhiễm vào một
cá thể
[39].
Dựa vào sự tương đồng về mặt di truyền người ta có thể phân loại các chủng
virus HIV thành các type, các nhóm và phân type. Có 2 type HIV: HIV-1 và HIV-2.
Cả 2 type này đều lây truyền qua đường tình dục, qua máu, từ mẹ sang con và