Trang 2 của 2 Đầu tiênĐầu tiên 12
Kết quả 21 đến 25 của 25

Chủ đề: WHO báo động về sự lạm dụng thuốc kháng sinh

  1. #21
    Thành viên năng động nhiệt tình.
    Ngày tham gia
    18-07-2009
    Giới tính
    Nam
    Đến từ
    Tp.HCM
    Bài viết
    47,922
    Cảm ơn
    2,578
    Được cảm ơn: 11,969 lần
    Kháng sinh đang ngày càng mất tác dụng, vì sao?

    Thứ Ba 23/2/2016 02:15:54 PM


    SKĐS - Hiện nay việc sử dụng thuốc kháng sinh (KS) trong điều trị có nhiều sự chọn lựa do xuất hiện khá nhiều loại thuốc KS với các tên biệt dược khác nhau.


    Hiện nay việc sử dụng thuốc kháng sinh (KS) trong điều trị có nhiều sự chọn lựa do xuất hiện khá nhiều loại thuốc KS với các tên biệt dược khác nhau. Ðồng thời do thuốc KS được bán và mua tương đối dễ dàng mặc dù đó là loại thuốc phải kê đơn, nên cũng xuất hiện tình trạng lạm dụng kháng sinh, dùng kháng sinh tràn lan, thiếu hiểu biết gây ra hậu quả nguy hiểm là ngày càng có nhiều thuốc KS bị vi khuẩn (VK) kháng lại, tức là thuốc không còn hiệu lực điều trị nữa.


    Hiện tượng “nhờn thuốc” gia tăng



    Mỗi một loại thuốc KS chỉ có tác dụng tiêu diệt hoặc ngăn chặn sự phát triển của một số nhóm vi khuẩn. Vì vậy, nếu chọn KS không có tác dụng mạnh đối với nhóm VK đang gây bệnh để điều trị thì không những không hiệu quả mà còn gây ra những bất lợi khác như làm cho KS đó dễ bị kháng thuốc đối với những nhóm VK. Một trong những sai lầm rất phổ biến hiện nay là khi bị cảm cúm, người ta hay dùng thuốc KS để điều trị ngay cả khi không có chỉ định của thầy thuốc. Bệnh cúm do virut gây ra. Khi dùng KS để điều trị bệnh cảm lạnh hoặc những bệnh do nhiễm virut không những không có tác dụng mà còn có thể gây ra những tác dụng phụ nguy hiểm. Sử dụng KS thường xuyên khi không có dấu hiệu của sự nhiễm khuẩn sẽ tạo nên những dòng VK không đáp ứng với điều trị. Điều này được gọi là sự kháng thuốc của VK mà chúng ta thường gọi là “nhờn thuốc”. Khi một loại VK “nhờn” một loại KS nào đó tức là KS đó đã bị mất tác dụng tiêu diệt hoặc ngăn chặn sự phát triển của loại VK đó. Hiện tượng VK kháng thuốc thường xảy ra khi một loại KS được sử dụng trong thời gian dài. Việc các thầy thuốc lạm dụng KS phổ rộng trong điều trị dễ làm cho VK kháng thuốc nhanh hơn với loại KS đó. Vì vậy nên ưu tiên sử dụng loại KS phổ hẹp, tức là KS chỉ điều trị được một vài loại VK.



    Kháng sinh đồ - kim chỉ nam để lựa chọn kháng sinh phù hợp.


    Tình trạng dùng thuốc KS không đủ liều, không đủ thời gian quy định hiện nay rất phổ biến và làm cho nguy cơ VK kháng thuốc tăng. Một số VK sau một thời gian dài tiếp xúc với KS ở nồng độ mà thuốc KS không tiêu diệt được chúng sẽ trở nên thích ứng được với KS đó. Một trong những loại VK thường có kiểu kháng thuốc này là VK gây bệnh lao. Chính vì vậy, trong điều trị lao, việc tuân thủ nguyên tắc dùng thuốc rất quan trọng. Quần thể VK lao trong tổn thương lao chỉ bị quét sạch khi dùng thuốc liên tục 8-9 tháng và sử dụng loại hóa chất điều trị lao này với liều lượng thích hợp. Trong điều trị lao cũng phải phối hợp ít nhất hai thuốc để loại trừ khả năng kháng thuốc của VK.


    VK biến đổi làm trầm trọng thêm tình trạng kháng thuốc



    Bên cạnh đó, khi môi trường bất lợi cho sự phát triển, VK sẽ có nhiều đột biến về gene để hình thành nên các phân nhóm nhằm thích nghi với môi trường sống. Một số loại VK, khi tiếp xúc với KS bị tiêu diệt phần lớn, số ít còn lại sẽ có những biến đổi về di truyền để thích nghi, nói đúng hơn là để kháng lại loại KS đó. Các VK này tiếp tục sinh sôi và tạo nên những thế hệ VK kháng thuốc di truyền. Ngoài ra, một số VK khi đề kháng với loại KS này cũng sẽ có khả năng đề kháng luôn với một hoặc vài loại KS khác. Hiện tượng này được gọi là kháng thuốc chéo. Nguyên nhân là do các loại KS này có cùng cơ chế tác động lên VK hoặc có cấu trúc hóa học gần giống nhau.


    Các VK kháng KS có thể được điều trị bằng nhiều loại KS kết hợp cùng lúc, một số trường hợp bệnh nhân cần phải nhập viện để điều trị bằng các loại KS mạnh hơn và ít được sử dụng rộng rãi. Đặc biệt, việc chọn lựa KS để điều trị những trường hợp này không thể thiếu kỹ thuật làm KS đồ. Như vậy để tránh tình trạng VK kháng KS, người bệnh không nên tự ý sử dụng KS hoặc tự ý ngừng điều trị trước thời gian quy định của thầy thuốc.


    Việc lựa chọn KS tùy thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau như: vị trí nhiễm khuẩn, tuổi bệnh nhân, tình trạng lâm sàng... trong đó KS đồ cũng đóng vai trò rất quan trọng trong việc chọn lựa KS. Trong bệnh viện, KS đồ được sử dụng thường xuyên và được xem là kim chỉ nam để lựa chọn KS thích hợp cho từng bệnh nhân. Dùng KS đúng quy định, đúng phác đồ, không lạm dụng, dùng đúng liều lượng và thời gian là góp phần giảm tỷ lệ kháng thuốc. Nếu chúng ta cứ dùng một cách thiếu hiểu biết thì trong tương lai, con người sẽ không còn vũ khí để chống lại VK nữa vì KS đã bị vô hiệu hóa bởi tình trạng kháng thuốc đang ngày càng gia tăng.
    DS. Lê Anh



    http://suckhoedoisong.vn/khang-sinh-...o-n112398.html

  2. #22
    Thành viên năng động nhiệt tình.
    Ngày tham gia
    18-07-2009
    Giới tính
    Nam
    Đến từ
    Tp.HCM
    Bài viết
    47,922
    Cảm ơn
    2,578
    Được cảm ơn: 11,969 lần
    Cảnh báo “hậu kháng sinh”

    Thứ năm, 25/02/2016 15:32

    Kháng sinh là thuốc đặc biệt được dùng chữa các bệnh nhiễm khuẩn, loại bệnh thường nghiêm trọng có thể đe dọa tính mạng người bệnh.



    Người dân sử dụng thuốc kháng sinh cần tuân thủ theo kê đơn của bác sĩ - Ảnh minh họa: Châu Anh

    Thời gian gần đây có khái niệm gọi là “hậu kháng sinh” được dùng chỉ việc dùng thuốc loại đặc biệt này.



    Nếu trước “hậu kháng sinh” có thêm chữ “tác dụng” thì làm người ta vui, còn thêm chữ “thời kỳ” hay “kỷ nguyên” thì làm người ta buồn lo quá đỗi. Vì sao như vậy?



    Từng là chuyện vui



    Trước hết, hãy nói chuyện vui. Trong sử dụng kháng sinh, nếu các thầy thuốc biết và sử dụng nhuần nhuyễn “tác dụng hậu kháng sinh” sẽ thu lợi rất nhiều.



    Điều ai cũng biết, mục tiêu của việc dùng kháng sinh là trị bệnh nhiễm khuẩn hiệu quả. Tức dùng nó tiêu diệt hẳn vi khuẩn gây bệnh, hoặc không tiêu diệt cũng ức chế sự phát triển của vi khuẩn để sức đề kháng cơ thể tiêu diệt chúng.



    Muốn làm được điều vừa kể, ta phải dùng kháng sinh đúng cách (uống, tiêm chích đúng cách, đúng liều...) để nồng độ kháng sinh đạt được trong máu người bệnh đủ tiêu diệt hoặc ức chế vi khuẩn.
    Trong đó, nồng độ kháng sinh trong máu người bệnh đạt được phải cao hơn “nồng độ ức chế vi khuẩn tối thiểu” (gọi tắt MIC, tức nồng độ thấp nhất gây hại vi khuẩn). Nếu dùng kháng sinh mà nồng độ thấp hơn MIC thì công cốc, vi khuẩn không hề hấn gì, bệnh không được chữa và nặng thêm. Ta phải dành quyền chỉ định này cho các thầy thuốc.



    Sau một thời gian rất dài dùng kháng sinh, nay các nhà chuyên môn y dược phát hiện có nhiều kháng sinh nếu biết dùng đúng cách thì sau khi tiếp xúc với vi khuẩn, nồng độ kháng sinh có trong máu mặc dù rất thấp, thấp hơn cả MIC chúng vẫn cho tác dụng trị vi khuẩn hiệu quả. Những kháng sinh cho tác dụng kỳ lạ đó được gọi kháng sinh có “tác dụng hậu kháng sinh”.



    Hậu kháng sinh trong “tác dụng hậu kháng sinh” có nghĩa sau khi dùng một liều kháng sinh đúng cách, kháng sinh đó gây hại vi khuẩn đến độ có dư hậu, sau một thời gian nồng độ của nó giảm dần trong máu thấp hơn cả MIC nó vẫn tiếp tục gây hại vi khuẩn. Điều rất vui khi phát hiện có những kháng sinh có “tác dụng hậu kháng sinh”, cách sử dụng chúng thay đổi và đem nhiều lợi ích cho người bệnh.



    Đối với các kháng sinh có “tác dụng hậu kháng sinh” tốt , thay vì dùng liều thấp nhiều lần trong ngày như trước thì nay nên dùng liều cao ít lần trong ngày. Với cách dùng mới này, “tác dụng hậu kháng sinh” phát huy rất tốt.



    Lúc đầu, khi nồng độ kháng sinh đạt đỉnh điểm thì những vi khuẩn cứng đầu bị tiêu diệt, sau đó nồng độ giảm xuống thấp hơn cả MIC nhưng vẫn để lại dư âm “hậu kháng sinh” tiêu diệt những vi khuẩn còn lại.



    Đối với các kháng sinh không có hoặc ít “tác dụng hậu kháng sinh” như nhóm beta-lactam (các penicillin, các cephalosporin...), nhóm macrolid (erythromycin, clarithromycin...) nên dùng thuốc nhiều lần trong ngày thì tốt hơn.



    Nhưng cũng rất đáng lo




    Chuyện vui về “hậu kháng sinh” được kể ở trên là thế. Còn chuyện buồn lo thì sao?



    Hiện nay, các nhà chuyên môn, đặc biệt là các giới chức của Tổ chức Y tế thế giới (WHO), đã dùng mấy chữ “thời kỳ hậu kháng sinh” hay “kỷ nguyên hậu kháng sinh” trong phát biểu với thái độ buồn lo không thể tả.



    Bởi sau thời gian dài gọi là thời kỳ vàng son của kháng sinh, việc dùng kháng sinh đã vượt qua tầm kiểm soát, tiến sát đến thời kỳ mà đề kháng kháng sinh hết thuốc chữa. Đề kháng kháng sinh là gì mà ghê gớm quá vậy?



    Nói nôm na, đề kháng kháng sinh là với liều dùng thông thường, kháng sinh bị lờn, chẳng có tác dụng gì với vi khuẩn trước đây nó tỏ ra rất hiệu quả.



    Đề kháng kháng sinh xuất hiện rất sớm, gần như song hành với sự xuất hiện và sử dụng kháng sinh. Kháng sinh đầu tiên là penicillin được sản xuất và chính thức dùng trong điều trị bệnh nhiễm khuẩn vào năm 1945 thì vào năm 1948, người ta phát hiện vi khuẩn Staphylococcus aureus đề kháng (tức lờn) với kháng sinh này.



    Vài năm sau đó, con người chống lại S. aureus đề kháng bằng cách tìm ra kháng sinh mới là nhóm methicillin. Nhưng đến năm 1961, S.aureus lại đề kháng methicillin để được gọi tên MRSA. Khi đó, muốn chống lại MRSA phải dùng vancomycin là kháng sinh quý hiếm, dự trữ sau cùng. Đến năm 1997, tai họa lại đến là vì MRSA đề kháng được cả vancomycin để nghiễm nhiên mang tên VRSA.
    Hiện các kháng sinh đề kháng được gọi là “siêu mầm bệnh” hoặc “vi khuẩn siêu đề kháng” bởi không chỉ có VRSA mà gần đây, có thêm vi khuẩn rất nguy hiểm đã đột biến gen mang gen tiết ra enzym New Dehli Metallo beta-lactamase (NDM-1) đề kháng các kháng sinh thuộc nhóm carbamenem là nhóm kháng sinh rất mạnh, thuộc loại dự trữ sau cùng chỉ dùng khi bị nhiễm khuẩn rất nặng.



    Người ta ghi nhận chính việc sử dụng kháng sinh bừa bãi, không đúng cách, không đủ liều sẽ làm vi khuẩn không bị tiêu diệt hết, một số có khả năng thích ứng, đặc biệt có sự đột biến gen trên nhiễm sắc thể kiểm soát sự nhạy cảm đối với kháng sinh, số này tồn tại, phát triển thành “chủng” vi khuẩn mới mà kháng sinh đã sử dụng không còn tác dụng với chúng nữa.



    Chúng ta vẫn còn thời gian. “Hậu kháng sinh” rất đáng buồn lo sẽ không xảy ra khi mọi người cam kết dùng kháng sinh an toàn và hợp lý. Người dân chỉ sử dụng kháng sinh khi được thầy thuốc kê đơn. Còn các thầy thuốc chỉ định dùng kháng sinh cho người bệnh với tinh thần trách 
nhiệm cao nhất.


    Gần đây nhất, người ta phát hiện ở Trung Quốc xuất hiện “vi khuẩn siêu đề kháng” đề kháng cả colistin (kháng sinh rất ít dùng và trước đây chẳng có vi khuẩn nào có thể đề kháng). Vi khuẩn đáng sợ này có chứa gen kháng thuốc MCR-1, và gen này được dự đoán có thể giúp vi khuẩn đề kháng với tất cả kháng sinh hiện có.



    Nếu đúng thế thì con người sẽ đối diện với khoảng trống mênh mông phía trước vì không còn vũ khí kỳ diệu gọi là kháng sinh nữa. Tình trạng khủng khiếp đó WHO gọi là “thời kỳ hậu kháng sinh”, đồng nghĩa với việc con người có thể chết do bất kỳ bệnh nhiễm khuẩn thông thường nào!
    Theo PGS.TS Nguyễn Hữu Đức - Tuổi trẻ

  3. #23
    Thành viên năng động nhiệt tình.
    Ngày tham gia
    18-07-2009
    Giới tính
    Nam
    Đến từ
    Tp.HCM
    Bài viết
    47,922
    Cảm ơn
    2,578
    Được cảm ơn: 11,969 lần
    Thời đại hoàng kim của kháng sinh đã qua, trước mắt sẽ là cơn ác mộng với loài người

    Thứ Bảy, 13:32 26/03/2016
    Có hàng triệu người đã chết mỗi năm trong thời đại chưa có kháng sinh, và rồi sẽ là một con số tương tự trong những năm sắp tới.

    Vi khuẩn sống sót trước kháng sinh là cơn ác mộng với nhân loại.



    Năm 1928, penicillin, loại kháng sinh đầu tiên được tìm ra bởi một nhà sinh học người Scotland, Alexander Fleming. Ông được coi là người đã mở ra kỷ nguyên vàng của kháng sinh trong y học. Nó được gọi là thần dược của tây y, khi đã cứu hàng triệu người bệnh mỗi năm khỏi cái chết gây ra bởi nhiễm khuẩn.



    Tuy nhiên, câu chuyện tuyệt vời ấy dường như đang đi đến hồi kết. Sau hơn 70 năm kháng sinh được đưa vào y học, thời đại hoàng kim của nó đã không còn được duy trì. Có hàng triệu người đã chết mỗi năm trong thời đại chưa có kháng sinh, và rồi sẽ là một con số tương tự trong những năm sắp tới. Cơn ác mộng này mang tên "kháng kháng sinh", và xuất phát từ chính sự lạm dụng thuốc của con người.



    Kháng kháng sinh là gì?



    Kháng kháng sinh là hiện tượng xảy ra khi mầm bệnh hay vi khuẩn không bị tiêu diệt bởi thuốc kháng sinh. Chúng không những tồn tại mà còn sinh sản ra những thế hệ vi khuẩn mới, cũng có đặc tính kháng thuốc và hóa chất điều trị nhiễm trùng.



    Một chủng vi khuẩn có thể phát triển đế chống lại từ một cho đến hàng chục loại thuốc kháng sinh khác nhau. Khi đó, bệnh nhiễm trùng trở nên khó khăn hoặc thậm chí không thể điều trị. Trong một vài trường hợp, bệnh nhân có thể phải trải qua phẫu thuật cắt bỏ, hoặc thậm chí tử vong vì kháng kháng sinh.



    Tại sao kháng kháng sinh là một cơn ác mộng với loài người?



    Nếu bạn quay lại trước những năm 1943, khi thuốc kháng sinh chưa xuất hiện, mọi cái chết xung quanh chúng ta không đến từ ung thư hay bệnh tim mạch. Con người sẽ chết vì các vết thương khi bị ngã, trúng đạn, tai nạn lao động… Phần lớn những vết thương dẫn đến nhiễm trùng và kết thúc cuộc sống của một ai đó.



    Tuy nhiên, tất cả thay đổi sau khi Fleming tìm ra penicillin. Nhiễm trùng được coi là án tử, đột nhiên lại có thể chữa trị chỉ sau "một cái búng tay" với kháng sinh. Giống như một phép lạ vậy, điều đó mở ra một kỷ nguyên vàng son cho thuốc tây y. Những viên kháng sinh được coi là thần dược.



    Cho tới nay, đã hơn 70 năm trôi qua, và chúng ta nghi ngờ rằng có mấy khi một thời kỳ vàng son của điều gì có thể kéo dài đến vậy. Chẳng còn sớm nữa để nghĩ về sự sụp đổ của thời đại kháng sinh, khi vi khuẩn đang ngày càng kháng thuốc :









    Những năm 1943, thuốc kháng sinh được coi là phép màu.




    Nói về một nền văn minh hiện đại, chúng ta hay tưởng tượng đến nhà máy điện, máy vi tính, thiết bị cầm tay… Nhưng mấy ai biết rằng kháng sinh là một trong những trụ cột đang chống đỡ thế giới ấy. Nếu thời đại kháng sinh sụp đổ, nền văn minh sẽ rung chuyển như thế nào?



    Đầu tiên, chúng ta sẽ mất hết lá chắn phòng vệ cho những người có hệ miễn dịch yếu. Họ bao gồm bệnh nhân ung thư, người nhiễm HIV, trẻ em đẻ non… Điều này đồng nghĩa với cái chết của tất cả những con người này.



    Tiếp đến, kỹ thuật phẫu thuật của loài người bị vô hiệu hóa. Nhiều ca phẫu thuật được yêu cầu sử dụng kháng sinh phòng ngừa. Khi kháng sinh mất tác dụng, phòng phẫu thuật của bệnh viện như không có mái che.



    Chúng ta sẽ không thể mổ tim, ghép thận, đưa ống thông cho bệnh nhân đột quỵ… Chúng ta không thể phẫu thuật dù chỉ đơn giản là chỉnh lại khớp gối. Không thể đẻ mổ, và dù cho trong những bệnh viện hiện đại nhất, cứ 100 sản phụ sẽ có 1 người tử vong.




    Kháng kháng sinh dẫn đến sự thất bại trong điều trị nhiễm trùng.




    Nhiễm trùng gây ra nỗi sợ hãi từ những bệnh tầm thường. Viêm họng liên cầu gây suy tim. Viêm phổi giết chết 3 trong 10 trẻ em mắc bệnh. Nhiễm trùng da đồng nghĩa với phẫu thuật cắt bỏ chi. Hãy nhớ lại trường hợp đầu tiên được điều trị penicillin. Albert Alexander trước đó đã mất một con mắt trong tình trạng da đầu rỉ mủ, chỉ bắt đầu từ việc bị gai xước vào mặt trong khi làm vườn.



    Rồi thì bạn còn dám làm gì nữa khi mà bất cứ tổn thương nào cũng có thể giết người. Bạn có dám đi xe máy, trượt patin, trèo thang để sửa mái nhà hay đặt con bạn chơi đùa dưới sàn nhà?



    Bao giờ thì những điều này xảy ra?



    Bạn có giật mình không khi biết rằng chúng ta đã ở trong cơn ác mộng này rồi?



    Cho tới ngày hôm nay, loài người có trong tay trên dưới 100 loại kháng sinh. Con số không khác biệt là mấy từ những năm đầu thế kỷ 21. Nhưng năm 2000, một bệnh nhân người Mỹ đầu tiên được Trung tâm Kiểm soát Dịch bệnh và Phòng ngừa Hoa Kỳ (CDC) xác nhận kháng tất cả các kháng sinh, chỉ trừ hai loại.



    Năm 2008, các bác sĩ Thụy Điển phải đối mặt với trường hợp một bệnh nhân Ấn Độ nhiễm trùng mà kháng toàn bộ kháng sinh chỉ trừ 1 loại.




    10 triệu người sẽ chết mỗi năm vì kháng kháng sinh vào năm 2050.




    Nhưng bạn đừng nghĩ đó chỉ là những trường hợp đơn lẻ. Mỗi năm, riêng Hoa Kỳ và Châu Âu có khoảng 50.000 người chết vì nhiễm trùng mà không có thuốc chữa. Một dự án được tài trợ bởi chính phủ Anh mang tên “Chương trình Đánh giá Kháng kháng sinh” ước tính tổng số ca tử vong loại này trên thế giới là 700.000 người mỗi năm. Năm 2050, con số sẽ lên đến 10 triệu ca với tốc độ kháng kháng sinh phát triển như hiện nay.



    Bỏ qua những con số, bạn cũng có thể biết được cơn ác mộng đã đến với chính mình và người thân. Thời gian trước đây, triệu chứng tiểu buốt do nhiễm trùng đường tiết niệu có thể chữa khỏi hoàn toàn bằng một đơn kháng sinh ngắn ngày. Bây giờ, bạn có thể phải dùng đến vài ba loại thuốc.



    Nghiên cứu mới đây chỉ ra rằng con bạn có nguy cơ nằm trong 25% trẻ em nhiễm trùng đường tiết niệu phải sử dụng 3 loại kháng sinh khác nhau. 25% còn lại phải điều trị với 2 loại thuốc và chỉ còn một nửa trẻ em có thể trị khỏi bằng một loại thuốc duy nhất.



    Ngày 30 tháng 4 năm 2014, Tổ chức Y tế thế giới (WHO) tuyên bố trong một báo cáo rằng nhân loại thực sự đang ở trong cơn ác mộng của kháng kháng sinh. Nó là một mối đe dọa nghiêm trọng và thách thức y học trong thời điểm này. WHO nói “không hành động ngay hôm nay, tương lai chúng ta sẽ chẳng còn thuốc chữa bệnh”.



    Fleming đã biết trước mọi thứ




    Alexander Fleming, người mở đường cho thời kỳ vàng của tây y với kháng sinh.




    Alexander Fleming, nhà sinh học người Scotland được coi là cha đẻ của kháng sinh khi ông phát hiện ra penicillin vào năm 1928. Năm 1943, những liều penicillin thương mại đầu tiên được tung ra. Hai năm sau đó, Fleming nhận giải Nobel cho phát hiện của mình.



    Nhưng ngay trong buổi phỏng vấn sau đó, ông đã cảnh báo đến viễn cảnh không vui khi vi khuẩn có thể trở nên kháng thuốc. “Những người lạm dụng penicillin ngày hôm nay, họ phải chịu trách nhiệm cho cái chết của những bệnh nhân nhiễm vi khuẩn kháng penicillin sau này”, Flenming nói. “Tôi hy vọng điều nguy hiểm này có thể được kiểm soát”.



    Và rồi đúng như vậy. Năm 1943, penicillin được tung ra thì năm 1945, vi khuẩn kháng penicillin xuất hiện. Con người lại đi tìm những loại kháng sinh mới. Năm 1972, vancomycin được điều chế, kháng vancomycin xuất hiện năm 1988.



    Imipenem ra đời năm 1985 thì đến năm 1998, kháng imipenem xuất hiện. Một trong những loại kháng sinh mới nhất của nhân loại, daptomycin ra đời năm 2003 thì chỉ 1 năm sau xuất hiện vi khuẩn kháng nó.



    Điều này được ví như trò chơi nhảy cừu. Thuốc ra đời, vi khuẩn kháng nó và rồi chúng ta lại đi tìm loại thuốc mới. Nhưng có vẻ như loài người đang hụt hơi khi mà một chủng vi khuẩn mới sinh ra cứ mỗi 20 phút, các công ty dược phẩm thì cần đến cả thập kỷ đế nghiên cứu một loại kháng sinh.



    Chúng ta có thể làm gì?



    Trước hết, hãy nói về nguyên nhân tại sao vi khuẩn có thể trở nên kháng thuốc. Xét dưới góc độ tế bào, nó là việc vật chất di truyền DNA của vi khuẩn được biến đổi để: tránh sự xâm nhập của kháng sinh vào chúng, giúp vi khuẩn tổng hợp enzyme gây bất hoạt hoặc phân hủy kháng sinh, thay đổi con đường chuyển hóa và chúng thải được kháng sinh ra khỏi tế bào.




    Con người đã và đang lạm dụng thuốc kháng sinh.




    Bỏ qua những điều phức tạp này, bạn nên biết đến chính con người đã tiếp tay cho vi khuẩn biến đổi gen của chúng. Đó là những hành động được gọi chung cái tên: lạm dụng thuốc kháng sinh.
    Bạn có bao giờ dùng kháng sinh để điều trị bệnh cúm mà không biết nó gây ra bởi virus chứ không phải vi khuẩn? Bạn có bao giờ tự ý giảm liều lượng hay thời gian điều trị kháng sinh của bác sĩ xuống một nửa mà không biết điều đó tạo điều kiện cho vi khuẩn sống sót và tạo gen kháng thuốc?



    Rồi khi chúng ta sử dụng kháng sinh trong chăn nuôi, thú y, sản xuất nông nghiệp và ngư nghiệp, đó là điều kiện cho những vi khuẩn ở động vật kháng thuốc rồi ảnh hưởng tới cả con người. Sử dụng chất diệt khuẩn trong lau rửa thường xuyên cũng tạo ra những dòng vi khuẩn kháng thuốc.
    Cho tới nay, kháng kháng sinh đã trở thành vấn đề toàn cầu chỉ bắt nguồn từ những điều nhỏ nhặt nhưng ai cũng làm thường xuyên như vậy. Những giải pháp toàn cầu cũng sẽ phải được đặt ra. Có thể là chúng ta nên nghiêm cấm hẳn việc sử dụng kháng sinh trong chăn nuôi và ngư nghiệp. Thiết lập một cổng kiểm soát kê đơn kháng sinh để tránh lạm dụng bừa bãi hay xây dựng hệ thống giám sát cảnh báo kháng thuốc sắp xảy ra…



    Nhưng rồi đó là những điều quá to lớn và cần một nguồn tài trợ không hề nhỏ. Tại sao chúng ta không bắt đầu bằng những hành động của từng cá nhân?




    Mỗi cá nhân cần hành động để chống lại vi khuẩn kháng thuốc.




    Bằng cách đọc bài viết này, bạn cũng đã góp phần vào nguy cơ giảm kháng kháng sinh xảy ra trong tương lai. Nếu bạn thực sự muốn chung tay cùng nhân loại chiến đấu trong cơn ác mộng chung, dưới đây là một số khuyến cáo mà nên được thực hiện và chia sẻ với mọi người:



    1. Đừng bao giờ tự ý sử dụng kháng sinh. Ví dụ như bệnh cúm thông thường do virus, bạn có uống kháng sinh cũng không thể hiệu quả được.



    2. Nói chuyện với bác sĩ nếu họ kê đơn kháng sinh cho bạn. Hãy hỏi họ xem liệu có thể điều trị ngoài kháng sinh hay không? Và nếu bắt buộc, loại kháng sinh đó có phù hợp với cơ thể bạn?



    3. Tuân thủ nghiêm ngặt liều và thời gian điều trị với kháng sinh của bác sĩ, ngay cả khi bạn nghĩ mình đã tốt hơn hoặc đã khỏi bệnh. Giảm liều hay dừng điều trị sớm tạo điều kiện cho vi khuẩn tồn tại kháng thuốc và tái nhiễm.
    4. Đừng tiết kiệm kháng sinh đã điều trị ở
    đợt trước để dùng lại. Vứt bỏ chúng, bởi lần sau có lẽ chúng sẽ mất tác dụng.



    5. Cùng một bệnh nhưng đừng sử dụng đơn thuốc của người khác. Như đã nói không phải kháng sinh nào cũng phù hợp với bạn.



    6. Bỏ ngay thói quen yêu cầu bác sĩ kê kháng sinh cho mình. Họ là những người có kinh nghiệm và nếu bạn không có dấu hiệu nhiễm trùng, điều trị các triệu chứng với thuốc ngoài kháng sinh là đủ.

    Trí Thức Trẻ/GenK

  4. #24
    Thành viên năng động nhiệt tình.
    Ngày tham gia
    18-07-2009
    Giới tính
    Nam
    Đến từ
    Tp.HCM
    Bài viết
    47,922
    Cảm ơn
    2,578
    Được cảm ơn: 11,969 lần
    Kháng kháng sinh: Di chứng ảnh hưởng đến gia đình và giống nòi

    Chủ nhật, 03/04/2016 06:41

    Theo thống kê của tổ chức Y tế thế giới, Việt Nam là một trong những nước có tỷ lệ kháng kháng sinh cao nhất trên thế giới.






    Những loại thuốc mang tên kháng sinh có tác dụng giúp ức chế sự phát triển của vi khuẩn, thậm chí diệt khuẩn vĩnh viễn. Chính bởi vậy, đã có một thời gian dài, loại thuốc này rất được ưa chuộng trong điều trị bệnh. Tuy nhiên, để phát huy được tác dụng kìm khuẩn hay diệt khuẩn cần căn cứ vào nồng độ của thuốc.

    Theo thống kê của tổ chức Y tế thế giới, Việt Nam là một trong những nước có tỷ lệ kháng kháng sinh cao nhất trên thế giới. Đây chính là hệ quả của việc lạm dụng thuốc kháng sinh của người Việt trong thời gian qua.

    Có thể nói, khi con người càng lạm dụng kháng sinh, các chủng vi khuẩn kháng thuốc càng có cơ hội phát triển và lây lan. Do đó, khả năng phòng bệnh của cơ thể bị giảm đi, đồng thời cơ thể đáp ứng với các loại thuốc cũng kém, nên khi có bệnh, tỉ lệ chữa khỏi thường không cao.

    Di chứng "Kháng thuốc kháng sinh" do đâu?

    Trong nhiều Hội nghị Quốc gia về chống kháng thuốc, vấn đề gia tăng nhanh chóng của tình trạng này đã được Bộ Y tế nhiều lần nhấn mạnh và cảnh báo. Nguyên nhân chủ yếu được công bố là do người dân tự ý sử dụng thuốc kháng sinh không cần kê đơn; không nhiễm khuẩn cũng dùng; dùng kháng sinh không phù hợp, không đúng lượng, hàm lượng, thời gian; lạm dụng kháng sinh trong chăn nuôi...

    Xuất phát từ thực tế rất nhiều nguời dân có thói quen mua thuốc không theo chỉ định, kê đơn của bác sỹ, tại hội nghị triển khai Kế hoạch hành động quốc gia về chống kháng thuốc giai đoạn 2013-2020, PGS.TS Nguyễn Văn Kính - Giám đốc BV Bệnh nhiệt đới Trung ương phát biểu rằng: “Không quá khi nói rằng việc mua bán kháng sinh tại các hiệu thuốc ở nước ta hiện nay dễ như mua rau. Người Việt cũng có thói quen sử dụng kháng sinh như ăn cơm, hễ ốm là tự ra hiệu thuốc mua kháng sinh về uống”.

    Cùng với đó, một cuộc khảo sát thực tế năm 2010 với khoảng gần 3.000 nhà thuốc ở cả nông thôn và thành thị thuộc các tỉnh phía Bắc cũng cho kết quả 90% kháng sinh được bán không có đơn của bác sĩ.

    Con số thống kê đó cho thấy rõ thực tế vấn đề nhận thức về thuốc kháng sinh của chính người bán thuốc và người dân còn cực kỳ thấp, đặc biệt là ở những vùng nông thôn. Phần lớn thuốc kháng sinh được bán và được người dân sử dụng mà không cần đơn thuốc hiên nay vẫn chiếm tỷ lệ rất cao. Kháng sinh được bán mà không có đơn là 88% (ở thành thị) và 91% (ở nông thôn).

    Thói quen mua thuốc và bán thuốc của người Việt hiện nay vẫn theo kiểu "Chỉ cần ra hiệu thuốc, mô tả bệnh, người bán thuốc kê đơn và nguời bệnh cứ thế mang về uống". Từ những viên thuốc ho, thuốc trị đau bụng, đau đầu, sổ mũi... chỉ cần kể triệu chứng và yêu cầu "Thuốc nào để nhanh khỏi" lập tức nhân viên bán thuốc tư vấn thuốc và liều lượng dùng từng loại.

    Cũng có nhiều người không cần mất thời gian đến bệnh viện mà lập tức hỏi “bác sỹ Google” và sau đó tự kê đơn thuốc cho chính mình, con cái và người thân.

    Và điều đáng lo ngại là việc tự ý sử dụng kháng sinh quá nhiều nên dẫn đến cơ thể kháng thuốc, các bác sỹ đã phải thay đổi rất nhiều loại thuốc khác nhau để điều trị.

    Rất nhiều người trong số chúng ta chỉ biết đến những tác dụng phụ phổ biến khi lạm dụng hoặc dùng kháng sinh không đúng liều lượng bao gồm: Dị ứng, tiêu chảy… mà không biết rằng, lạm dụng kháng sinh sẽ khiến cho bệnh tật trong tương lai không có thuốc chữa. Kháng sinh hoàn toàn có thể ảnh hưởng đến chính giống nòi của loài người, cụ thể là ảnh hưởng đến khả năng sinh sản của nam giới, thai nhi ở trong bụng mẹ và sức khỏe trẻ em.




    Nam giới có thể không còn "con giống" nếu dùng kháng sinh bừa bãi

    Thông thường, kháng sinh có tác dụng đến cơ thể trong thời gian ngắn nên nếu dùng đúng chỉ định sẽ không có ảnh hưởng gì. Tuy nhiên, cũng có một số loại kháng sinh nếu lạm dụng sẽ tạo ra những tác động xấu đến quá trình sinh sản tinh trùng, bao gồm: erythromycin, nitrofurantoin, gentamycin, chlotetracyclin, co-trimoxazol, tetracycline…

    Những kháng sinh này có thể ức chế sự phát triển, ảnh hưởng đến quá trình sinh tinh, suy giảm tần xuất phân bào của các tế bào sinh dục hoặc làm dị dạng tinh trùng… Từ đó tăng nguy cơ vô sinh ở nam giới.

    Một nghiên cứu gần đây được tiến hành bởi các nhà nghiên cứu tại Đại học Nevada (Mỹ) cho thấy tetracycline - một loại kháng sinh dùng để điều trị bệnh nhiễm trùng như viêm phổi và nhiễm trùng đường tiết niệu... có thể ảnh hưởng không chỉ về khả năng tồn tại của tinh trùng ở nam giới mà còn tác động đến cả số lượng tinh trùng.

    "Tetracycline có ảnh hưởng bất lợi đáng kể về chức năng sinh sản nam giới và khả năng sống của tinh trùng - giảm khả năng phát triển lên đến 25%. Và bây giờ chúng ta biết rằng những tác động đó có thể ảnh hưởng đến thế hệ tiếp theo.

    Điều phức tạp hơn là tetracycline được sử dụng rộng rãi trong nông nghiệp như là một chất phụ gia trong thức ăn gia súc, vì vậy, nhiều người có thể bị ảnh hưởng do ăn uống chứ không phải chỉ mỗi khi dùng thuốc", nhà nghiên cứu David Zeh cho biết.


    Một loại thuốc chữa đau dạ dày và chứng trào ngược thực quản có chứa kháng sinh cimetidin cũng được coi là rất có hại cho sức khỏe tinh trùng của nam giới. Sử dụng quá thường xuyên cimetidin có khả năng tăng hàm lượng prolactin. Ở nam giới, khi gia tăng prolactin sẽ làm giảm hàm lượng LH và testosterone, dẫn đến số lượng tinh trùng thấp hơn, giảm ham muốn tình dục và giảm chức năng tình dục, gây vô sinh.

    Do vậy, cánh mày râu nên xem xét việc lựa chọn các sản phẩm thực phẩm hữu cơ và cân nhắc khi sử dụng kháng sinh thích hợp để ngăn ngừa tác động xấu tới chức năng sinh sản.




    Mẹ dùng thuốc kháng sinh không đúng cách khi mang thai đe dọa tính mạng thai nhi

    Không phải tự nhiên mà trong thời gian mang bầu, các bà mẹ được khuyến cáo phải hết sức cẩn thận trong dùng thuốc, đặc biệt là các loại thuốc kháng sinh. PGS. TS. dược sĩ Nguyễn Hữu Đức, ĐH Y dược TPHCM, cho biết dùng thuốc kháng sinh trong thời kỳ thai nghén có thể gây tác dụng xấu đến bất cứ giai đoạn phát triển nào của thai kỳ, đặc biệt là ba tháng đầu.

    Thời gian từ khi thụ thai đến khi đứa trẻ được sinh ra gọi là thời kỳ bào thai, chia làm hai giai đoạn. Giai đoạn phát triển phôi thai gồm 3 tháng đầu của kỳ thai, dành cho sự tượng hình và biệt hóa các bộ phận của bào thai, bào thai chưa có hình dạng đầy đủ.

    Do đó, trong khoảng thời gian này nếu dùng thuốc kháng sinh có tác dụng cản trở sự phát triển bình thường của thai nhi, có thể gây ra quái thai, dị tật bẩm sinh. Ở những tháng sau đó, người mẹ cũng không được tự ý dùng thuốc vì mặc dù nguy cơ ảnh hưởng đến thai nhi do mẹ dùng thuốc kháng sinh có thể thấp hơn nhưng dị tật bẩm sinh ở thai nhi vẫn có thể xảy ra.

    Dị tật bẩm sinh có thể xảy ra ở bất cứ bộ phận nào như tim, mạch máu, đầu, mặt, bộ phận tiết niệu, sinh dục, tiêu hóa, xương, cơ, các chi...

    Trong thời gian mang bầu, nếu mắc bệnh nhiễm khuẩn, phụ nữ có thai vẫn cần dùng đến kháng sinh và trong trường hợp này, cần hỏi ý kiến bác sĩ và đặc biệt dùng theo đúng chỉ dẫn của bác sĩ.

    Lạm dụng thuốc kháng sinh đe dọa sức khỏe trẻ em


    Nếu dùng kháng sinh không đúng cách cũng có thể gặp phải nhiều tác dụng phụ, phổ biến nhất là tình trạng nhờn thuốc, kháng kháng sinh và suy giảm sức đề kháng.

    Theo chia sẻ của PGS.TS Nguyễn Tiến Dũng, nguyên trưởng khoa Nhi, BV Bạch Mai, Hà Nội, hiện nay, tình trạng tự chữa bệnh diễn ra khá phổ biến, trong khi việc tự chẩn đoán lại thiếu chính xác, dẫn tới tình trạng dùng kháng sinh khi chưa cần thiết hoặc bệnh không cần phải dùng kháng sinh (như các trường hợp cảm cúm thông thường) nhưng người bệnh vẫn lạm dụng.

    Việc nhiều bà mẹ quá tin tưởng vào việc dùng thuốc kháng sinh mà không biết được những hiểm họa đằng sau đó, nó có rất nhiều tác dụng phụ khác nhau, trước tiên là dị ứng. Dị ứng có thể gây sốc phản vệ, diễn ra vô cùng nhanh và có thể gây chết người ngay mà không thể tiên đoán trước được.

    Ngay cả với dị ứng chậm cũng vô cùng nguy hiểm, nó dẫn tới tình trạng nhiễm độc kháng sinh nặng và dẫn đến tử vong sau 1-2 tuần. Tác dụng phụ thứ hai là tiêu chảy - đây là tác dụng cũng rất hay gặp và làm suy giảm đáng kể sức khỏe của nhiều trẻ em.

    Một số kháng sinh dùng lâu có thể tích tụ độc tố trong các cơ quan như nhiễm độc gan, thận, máu, thần kinh thính giác, xương, răng…

    Việc dùng thuốc kháng sinh khi không cần thiết cũng sẽ làm giảm sức đề kháng, suy giảm hệ miễn dịch của cơ thể trẻ. Bởi lẽ uống kháng sinh vào những lúc không cần thiết sẽ khiến vi khuẩn kháng kháng sinh phát triển.

    Khi vi khuẩn kháng thuốc cũng có nghĩa là thuốc kháng sinh ấy không còn hiệu lực để chữa bệnh. Chúng có thể làm cho bệnh nghiêm trọng hơn, đồng thời rất khó khăn và tốn kém để điều trị. Vì vậy, chỉ nên dùng kháng sinh cho trẻ trong những trường hợp thực sự cần thiết.




    Lưu ý khi dùng kháng sinh
    - Không tự ý sử dụng kháng sinh. Hiện nay nhiều người hay tự ý mua thuốc để điều trị dù chưa biết mình mắc bệnh gì. Cứ thấy hiện tượng ho, hắt hơi, xổ mũi… là mua thuốc về điều trị mà không hay biết mình uống thuốc kháng sinh oan.

    Nếu muốn biết cần phải dùng kháng sinh hay không, bạn nhất định phải hỏi ý kiến bác sĩ cũng như được bác sĩ kê đơn, khám bệnh... Đó là chưa kể đến việc tự ý sử dụng kháng sinh mạnh có thể gây tác dụng phụ nguy hiểm.

    - Sử dụng kháng sinh theo chỉ định của bác sĩ. Khi bác sĩ đã nắm được nguyên nhân cũng như bệnh nhiễm khuẩn bạn đang mắc sẽ có đơn thuốc cụ thể như liều lượng mỗi ngày bao nhiêu, uống những loại kháng sinh nào, uống trong bao lâu, uống hay tiêm thuốc… bạn cần tuân thủ tuyệt đối theo đơn thuốc.

    - Chú ý đọc hướng dẫn sử dụng thuốc trước khi dùng. Tờ hướng dẫn trong hộp thuốc luôn có cụ thể liều lượng, cách dùng, chống chỉ định, tác dụng phụ… Một số điều bác sĩ có thể chưa nói rõ, nhất là tác dụng phụ hay việc chống chỉ định, nên bạn cần phải đọc kỹ trước khi dùng.

    - Không dùng lại thuốc kháng sinh thừa. Nhiều người bệnh sau khi bị bệnh trở lại có dấu hiệu giống bệnh cũ đã tự ý lấy thuốc kháng sinh còn từ lần trước sử dụng. Điều này không nên, bạn vẫn cần đến bác sĩ để kê đơn thuốc mới, tránh những hậu quả đáng tiếc.

    - Không bao giờ dùng thuốc kháng sinh để điều trị các bệnh do virus như cảm lạnh hay cảm cúm. Kháng sinh không có tác dụng chống lại virus.

    - Không chia sẻ thuốc kháng sinh của mình cho người có biểu hiện bệnh tương tự.

    - Dùng đúng kháng sinh và đúng liều. Không nên dùng kháng sinh mạnh hoặc kháng sinh phổ rộng khi không thực sự cần thiết. Nếu đang nhiễm khuẩn nhẹ mà dùng kháng sinh mạnh sẽ gây hại cơ thể. Việc uống không đúng loại và liều lượng sẽ gây kháng thuốc.

    Cụ thể là nhiều người bệnh dừng uống sau vài ngày vì thấy đã khỏi, mà theo chỉ định của bác sĩ là 10 ngày chẳng hạn. Điều này vô tình làm cho những vi khuẩn còn lại mới chỉ bị yếu đi sẽ nhờn thuốc vào những lần sau đó, thậm chí lây cho người khác.

    - Chú ý việc tương tác giữa kháng sinh với các loại thuốc khác. Không được dùng cùng lúc (hoặc trong suốt thời kỳ dùng loại kháng sinh nào đó) với một số kháng sinh có tương kị độc hại hoặc giảm tác dụng, ví dụ như erythromycin có đến 30 loại thuốc cấm dùng cùng.

    - Uống trước 60 phút hoặc sau 120 phút nếu bạn ăn uống các loại rau quả chua chứa nhiều axit hữu cơ.



    Theo Tiểu Nguyễn - Trí thức trẻ

  5. #25
    Thành viên năng động nhiệt tình.
    Ngày tham gia
    18-07-2009
    Giới tính
    Nam
    Đến từ
    Tp.HCM
    Bài viết
    47,922
    Cảm ơn
    2,578
    Được cảm ơn: 11,969 lần
    Vì sao không nên lạm dụng thuốc kháng sinh

    Thứ sáu, 20/05/2016 08:19

    Thuốc kháng sinh vô tình tiêu diệt vi khuẩn có lợi, để lại vi khuẩn mang gen kháng thuốc nên dễ khiến cơ thể bị tấn công.





    Y học hiện đại sẽ lạc lối nếu không có thuốc kháng sinh. Trước khi penicillin được khám phá vào năm 1928, một vết cắt nhỏ cũng đủ để khiến người ta tử vong. Nếu kháng sinh không được phát triển, chúng ta sẽ chẳng bao giờ nhìn thấy cách phẫu thuật như ngày nay.


    Trên thực tế, kháng sinh là công cụ vô giá chống lại các bệnh nhiễm trùng do vi khuẩn song cũng mang đến những hậu quả sức khỏe. Trends in Molecular Medicine chỉ ra 3 lý do con người cần thận trọng khi sử dụng kháng sinh.


    Thuốc kháng sinh khiến cơ thể dễ bị nhiễm trùng
    Vi sinh vật của con người bao gồm các vi khuẩn đường ruột có lợi giúp ổn định hệ thống miễn dịch. Chúng ức chế xâm nhập của vi khuẩn có hại và báo hiệu cho cơ thể kịp thời phản ứng. Tuy nhiên, kháng sinh lại làm giảm số lượng các vi khuẩn có lợi, dẫn đến nhiều vấn đề lâu dài như làm gia tăng nguy cơ nhiễm trùng, dị ứng, hội chứng chuyển hóa và hạn chế hiệu quả các liệu pháp dược.


    Đối với trẻ nhỏ, thuốc làm mất đi những vi khuẩn có lợi trong giai đoạn phát triển quan trọng của hệ miễn dịch nên em bé dễ bị hen suyễn hoặc rối loạn cân nặng kéo dài đến tuổi trưởng thành.


    Các loại kháng sinh như amoxicillin tiêu diệt các vi khuẩn có lợi trong ruột. Ảnh: Public Domain.


    Kháng sinh dẫn đến hiện tượng kháng thuốc
    "Siêu khuẩn" hay vi khuẩn kháng kháng sinh đang là mối nguy đe dọa sức khỏe con người. Theo Trung tâm Kiểm soát và Phòng tránh Dịch bệnh Mỹ, mỗi năm trên toàn thế giới có ít nhất 2 triệu người bị nhiễm vi khuẩn kháng kháng sinh, trong đó 23.000 người chết. Nếu siêu khuẩn tiếp tục phát triển với tốc độ hiện nay, đến năm 2050, con số tử vong vì những căn bệnh vốn có thể chữa được sẽ tăng lên 10 triệu.



    Điều mỉa mai là ở chỗ chính kháng sinh dẫn đến sự gia tăng siêu khuẩn. Thuốc kháng sinh tiêu diệt các vi khuẩn không chứa gen kháng thuốc, chỉ để lại những vi khuẩn chứa gen kháng thuốc, cho phép chúng nhân lên nhanh chóng rồi chuyển gen kháng thuốc sang các nhóm vi khuẩn khác. Cuối cùng, quá trình này tạo ra siêu khuẩn có khả năng kháng nhiều thuốc.


    Đặc biệt, con người càng lớn tuổi và càng tiếp xúc với thuốc kháng sinh thì càng mang nhiều gen kháng thuốc. Dựa trên quan điểm này, các nhà khoa học khuyến nghị đội ngũ y tế tránh kê thuốc kháng sinh không cần thiết để hạn chế sự lây lan của vi khuẩn kháng kháng sinh.


    Thuốc kháng sinh không phải biện pháp duy nhất để xử lý nhiễm trùng
    Ngày nay, nhiều phương pháp mới đang được phát triển nhằm thay thế hoặc bổ sung cho liệu pháp kháng sinh, chọn lọc mục tiêu tiêu diệt mà không gây xáo trộn hệ sinh vật và/hoặc tái tạo những vi khuẩn có lợi.


    Bên cạnh đó, phương pháp thúc đẩy sản xuất tế bào miễn dịch của các nhân tố kháng khuẩn tỏ ra đầy hứa hẹn sau khi chứng minh khả năng bảo vệ chuột khỏi bị nhiễm trùng. Ngoài ra, có thể sử dụng loại protein được sản xuất bởi vi khuẩn có lợi để tiêu diệt mầm bệnh, chỉnh sửa gen vào việc cắt các gen kháng kháng sinh khỏi vi khuẩn.


    Tất cả biện pháp trên đều đang được nghiên cứu và hy vọng cung cấp giải pháp mới nhằm hạn chế sử dụng thuốc kháng sinh.


    Theo Minh Nguyên - VnExpress

Trang 2 của 2 Đầu tiênĐầu tiên 12

Thông tin về chủ đề này

Users Browsing this Thread

Có 1 người đang xem chủ đề. (0 thành viên và 1 khách)

Quyền viết bài

  • Bạn Không thể gửi Chủ đề mới
  • Bạn Không thể Gửi trả lời
  • Bạn Không thể Gửi file đính kèm
  • Bạn Không thể Sửa bài viết của mình
  •