Phân biệt viêm gan B cấp tính và viêm gan B mãn tính
Trái với viêm gan mã tính, Thời gian ủ bệnh của viêm gan siêu vi B cấp tính biến đổi từ vài tuần lể đến 6 tháng (trung bình, 60-90 ngày), tùy thuộc trên số lượng của siêu vi tái tạo trong chất chích vào. Bệnh có lẽ nặng hơn trong những bệnh nhân cùng nhiễm với những siêu vi viêm gan khác (A, C, D, E, và những siêu vi thích gan khác) và trong những ai với bệnh gan đã có sẳn.
Viêm gan cấp tính
Nhiễm siêu vi cấp tính khởi đầu với sự tấn công của hệ miển nhiễm (serum sickness) với những triệu chứng báo trước bệnh của nóng sốt, đau khớp, và nổi mẩn ở da, thông thường nhất (maculopapular) là mề đay, trong 10% đến 20% bệnh nhân.
Hội chứng báo trước này đưa đến kết quả từ hổn hợp kháng nguyên bề mặt và kháng thể bề mặt (HBsAg-antiHBs) kích động thành phần bổ sung (complement) và được tụ tập trong màng bao khớp và những vách của những mạch máu ở da. Những đặc tính này trên phương diện tổng quát giãm đi trước khi có những dấu chứng của bệnh gan và tăng cao men gan (aminotransferase) trong huyết thanh được quan sát. Vàng da chỉ phát triển khoảng 30% bệnh nhân.
Những triệu chứng lâm sàng và vàng da trên phương diện tổng quát biếm mất sau 1-3 tháng, nhưng vài bệnh nhân đã kéo dài mệt mỏi ngay cả sau khi men gan (ALT) trong huyết thanh trở lại bình thường. Trên phương diện tổng quát, sự gia tăng men gan (ALT) và kháng nguyên bề mặt (HBsAg) giãm và biến mất cùng lúc, và trong 5% đến 10% trường hợp, kháng nguyên bề mặt (HBsAg) bị dọn sạch sớm và không còn tìm thấy nửa vào lúc bệnh nhân đến gặp bác sĩ lần đầu.
Sự kéo dài kháng nguyên bề mặt (HbsAg) sau 6 tháng ám chỉ cho sự phát triển tình trạng mang siêu vi (hepatitis B carrier), với chỉ một cơ hội nhỏ phục hồi trong 6-12 tháng tới. Sự dọn sạch bị chậm lại của kháng nguyên bề mặt (HBsAg) đã được tường trình là đi trước sự giãm trong nồng độ kháng nguyên bề mặt (HBsAg).
Nồng độ men gan (aminotransferase) huyết thanh vào khoảng 1000 đến 2000 U/L là điển hình, với men gan ALT cao hơn AST. Ở những bệnh nhân với viêm gan vàng da, sự gia tăng nồng độ bilirubin trong máu thường chậm hơn nồng độ men gan ALT. Nồng độ men gan ALT tăng lên không tương ứng với dự hậu (prognosis), và PT (INR) là chỉ định tốt nhất của dự hậu.
Viêm gan ác tính (fulminant hepatitis) xãy ra ít hơn 1% của những trường hợp. Viêm gan B ác tính trên phương diện tổng quát xãy ra trong vòng 4 tuần lể của khởi đầu những triệu chứng, và được đi đôi với bệnh nảo (encephalopathy), suy nhiều cơ quan, và tỉ lệ tử vong cao (>80%) nếu không được điều trị bằng ghép gan. Những bệnh nhân lớn hơn 40 tuổi hình như dể bị hơn những người trẻ hơn, mà trong đó bệnh nảo, rối loạn thận, và những biến chứng khác bên ngoài gan của suy gan nặng trở nên phát dấu chứng trong tiến triển nhiều tháng.
Những cơ chế gây bệnh của viêm gan ác tính là chưa hiểu rỏ nhưng được cho là liên quan đến sự vở tế bào gan ồ ạt dàn xếp bởi miển nhiễm của những tế bào gan bị nhiễm siêu vi. Cơ chế được đưa ra này có thể cắt nghỉa tại sao nhiều bệnh nhân với viêm gan siêu vi B ác tính không có bằng chứng của sự sinh sản của siêu vi trong huyết thanh tại thời điểm xãy ra.
Viêm gan mãn tính
Bệnh sử của viêm gan siêu vi B cấp tính (hay viêm gan có triệu chứng) thường không thấy trong những bệnh nhân với nhiễm viêm gan siêu vi B kinh niên. Khi những triệu chứng hiện diện, mệt mỏi có khuynh hướng nổi bật đối với các triệu chứng khác về thể chất, như ăn kém và khó chịu. Đau vùng gan cũng có thể xãy ra nhưng thường là đau thốn nhẹ. Những bệnh nhân có lẽ vẩn còn không có triệu chứng ngay cả trong những giai đoạn của viêm gan tái hoạt động. Trong những trường hợp như vậy, đặc biệt khi có sơ gan hiện diện, sự tái hoạt động của nhiễm siêu vi gan B có lẽ đi đôi với vàng da rỏ rệt và những dấu hiệu của suy gan.
Những dấu chứng tìm thấy có lẽ bình thường, hay gan và lá lách lớn có thể được tìm thấy. Trong sơ gan không bù đấp được (decompensated cirrhosis), mạch máu nổi lên trên da như những con nhện (spider angiomata), vàng da (jaundice), nước trong bụng (ascite), và phù ngoại biên (peripheral edema) là thông thường. Thử nghiệm men gan đưa đến kết quả thường hoàn toàn bình thường trong lúc tình trạng mang siêu vi gan B bất động.
Trái lại với những bệnh nhân trong giai đoạn dọn sạch siêu vi của bệnh nhiễm siêu vi gan B kinh niên có những gia tăng nhẹ hay vừa phải trong nồng độ men gan (AST và ALT). Trong lúc bệnh nặng hơn, nồng độ men gan (ALT) huyết thanh có lẽ cao như 1000 U/L hay hơn nửa, và hình ảnh lâm sàng và phòng thí nghiệm là không thể phân biệt được từ những nồng độ men gan của viêm gan siêu vi B cấp tính, bao gồm sự hiện diện trong huyết thanh của kháng thể lỏi (anti-HBc).
Tiến triển thành sơ gan phải được nghỉ đến khi nào sưng lá lách với thiếu chức năng, giãm chất đạm albumin (hypoalbuminemia) mà không có bệnh thận, hay sự kéo dài của thử nghiệm prothrombine time/PT được tìm thấy. Nồng độ men gan AST điển hình cao hơn nồng độ men gan ALT trong những bệnh nhân với sơ gan tiến triển.