Kết quả 1 đến 8 của 8

Chủ đề: Hỗ trợ điều trị HIV từ thiên nhiên

  1. #1
    Thành Viên Charles's Avatar
    Ngày tham gia
    15-04-2013
    Giới tính
    Nam
    Bài viết
    56,883
    Cảm ơn
    596
    Được cảm ơn: 12,648 lần

    Hỗ trợ điều trị HIV từ thiên nhiên

    Hỗ trợ điều trị HIV từ thiên nhiên

    Thứ sáu 22/05/2015 14:45

    Thời gian gần đây, cây Hoàn Ngọc đang nổi lên như một hiện tượng thảo dược quan trọng hỗ trợ điều trị các bệnh nan y, đặc biệt là HIV.

    Cây Hoàn Ngọc có rất nhiều tác dụng dược lý, giúp tăng cường sức đề kháng của cơ thể - Ảnh internet

    Cây Hoàn Ngọc có rất nhiều tác dụng dược lý, giúp tăng cường sức đề kháng của cơ thể, không chỉ phòng, chống ung thư mà những nghiên cứu gần đây nhất cho thấy loại cây này còn có khả năng kiềm chế virus HIV.

    Cụ thể, theo các nhà khoa học Việt Nam thuộc Viện Hóa Học, Viện Khoa Học và Công Nghệ Việt Nam đã công bố những thành công trong việc bước đầu phân lập những chất có trong rễ cây Hoàn Ngọc 7 năm tuổi, thu hoạch tại khu nuôi trồng của một doanh nghiệp ở Tây Ninh. Với kết quả rất nhiều hoạt chất có lợi được tìm thấy, đặc biệt là 2 hoạt chất quan trọng Lupenone và Betulin hỗ trợ tốt cho điều trị HIV.


    Betulin sau quá trình sinh tổng hợp của cơ thể, chuyển thành axit betulinic là một hợp chất quý hiếm có khả năng ức chế nhiều loại khối u trong cơ thể và ức chế HIV rất hiệu quả so với một số thuốc khác hiện đang được dùng để điều trị các bệnh trên.


    Các nhà khoa học Nga còn nhận thấy, Bentulinic có thể ức chế hoạt động biến đổi gene, nhiễm sắc thể trong cơ thể người do khả năng chống oxy hóa và kích thích cơ thể sản xuất interferons – điều chỉnh DNA bị “trục trặc”, giúp ổn định quá trình trao đổi chất của tế bào.

    Vì vậy, việc phát triển sản xuất dược phẩm từ cây Hoàn Ngọc có ý nghĩa kinh tế xã hội, góp phần bảo vệ và nâng cao sức khỏe cộng đồng, đồng thời mở ra một hướng đi mới cho các ngành Công nghiệp dược phẩm và Công nghệ sinh học trong tương lai.


    Trà My

  2. Có 2 người đã cảm ơn Charles cho bài viết bổ ích này:

    Nguyen Ha (26-05-2015),Tuanmecsedec (26-05-2015)

  3. #2
    Thành Viên Charles's Avatar
    Ngày tham gia
    15-04-2013
    Giới tính
    Nam
    Bài viết
    56,883
    Cảm ơn
    596
    Được cảm ơn: 12,648 lần
    CÂY HOÀN NGỌC, CÂY THUỐC ĐẶC BIỆT - BS NGUYỄN ĐỨC KIỆT

    Cây hoàn ngọc
    Đông dược Phú Hà - Vào những năm 1990, trong dân gian có lẽ chưa có một cây thuốc nào mà lại được người dân cho là một loại “thần dược” chữa được bách bệnh như cây Hoàn ngọc. Chỗ nào người ta cũng nói đến Hoàn ngọc, bệnh gì người ta cũng chữa bằng Hoàn ngọc và nhà nào cũng trồng Hoàn ngọc. Lời đồn đại cho rằng sở dĩ cây có tên là "Hoàn ngọc" vì có một chú bé chơi đùa bị chúng bạn đá vào vùng "của quý", hòn "Ngọc hành" bị biến mất, sau nhờ dùng cây thuốc "Con khỉ" mà Ngọc hành lại trở về như cũ. Từ đó, cây Con khỉ được mang tên mới: Cây Hoàn ngọc.

    1. Đại cương

    - Tên gọi:
    Cây Hoàn ngọc còn có tên là cây “Xuân hoa”, cây “Nhật nguyệt”, cây “Tu lình”, cây "Con khỉ", cây “Thần dưỡng sinh”, cây “Trạc mã”, cây “Thần tượng linh”, cây “Mặt quỷ” và nhiều tên khác nữa, có tên khoa học là Pseuderanthemum (Nees) Radlk., thuộc họ Ô Rô (Acanthaceae).

    - Mô tả
    : Đây là loại cây bụi, sống nhiều năm, cao 1-2 m, thân non màu xanh lục, phân nhiều cành mảnh, phần gốc hóa gỗ màu nâu. Lá mọc đối, hình mũi mác, dài 12 – 17cm, gốc thuôn, đầu nhọn, mép nguyên. Cụm hoa mọc ở kẽ lá hoặc đầu cành, thành xim dài 10 – 16cm; hoa lưỡng tính, màu trắng pha tím, đài 5 lá rời nhau, tràng hợp có ống hẹp và dài; bao phấn màu tím, bầu thượng, nhẵn, 2 ô. Quả nang, chứa 4 hạt.

    - Thành phần hóa học: Theo sách Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam của nhóm tác giả Đỗ Huy Bích... Trần Toàn - Viện Dược liệu, do NXB Khoa học kỹ thuật ấn hành năm 2006 thì, cây Hoàn ngọc chứa sterol, flavonoid, đường khử, carotenoid, acid hữu cơ, 7 chất đã được phân lập, trong đó 4 chất là Phytol, β-sitosterol, hỗn hợp đồng phân Epimer của Stigmasterol và Poriferasterol. Lá tươi chứa diệp lục toàn phần 2,65mg/g, protein hòa tan 25,5mg/g, polysaccharid hòa tan 0,80%, và các chất: Ca 875,5mg%, Mg 837,6mg%, K 587,5mg%, Na 162,7mg%, Fe 38,75mg%, Al 37,5mg%, V 3,75mg %, Cu 0,43mg%, Mn 0,34mg%, Ni 0,19mg%. Lá có enzym với hoạt tính cao ở pH 7,5, nhiệt độ 70oC.

    - Tác dụng dược lý: Qua nghiên cứu, các nhà khoa học nhận thấy cây Hoàn ngọc có các tác dụng kháng khuẩn, kháng nấm; có hoạt tính thủy phân protein (nên trong lâm sàng đắp lá tươi Hoàn ngọc làm tiêu mủ và làm tan sẹo lồi); tác dụng ức chế Monoaminoacydase (MAO) và tác dụng bảo vệ gan. Cây không có độc tính.

    2. Bộ phận dùng

    - Lá cây: Dùng tươi (thông dụng nhất) hoặc phơi (trong râm) hay sấy khô.
    - Vỏ thân, vỏ rễ, cành cây.
    - Toàn cây tươi giã nát hoặc phơi (trong râm) hay sấy khô.
    - Rễ cây: thường phải là cây có từ 7 năm tuổi trở lên mới tốt.

    3. Công dụng và liều dùng:

    Cây Hoàn ngọc không độc, có thể uống trong hay đắp ngoài, dùng tươi hay dùng khô đều được, nhưng dùng tươi tác dụng tốt hơn. Nếu dùng tươi phải nhai chậm để thuốc kết hợp với nước bọt mới phát huy tối đa tác dụng của thuốc.

    3.1. Theo sách Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam, cây Hoàn ngọc dùng để chữa các bệnh sau đây:

    - Chữa viêm nhiễm đường tiêu hóa: Rối loạn tiêu hóa, viêm loét dạ dày, tá tràng, trĩ nội...: Nhai mỗi lần 7 – 9 lá tươi, ngày 2-3 lần, dùng liền 5 – 7 ngày.

    - Cầm máu: Chữa xuất huyết đường tiêu hóa, chấn thương chảy máu, làm tan máu tụ do chấn thương, trĩ nội, trĩ ngoại ra máu, ho ra máu... Nhai mỗi lần 7 – 9 lá tươi, hay sắc 10g lá khô, uống như nước chè, dùng liền 5 – 7 ngày.

    - Chữa lở loét: Lá tươi rửa sạch, liều lượng tùy theo vết thương, cho thêm một dúm muối, giã nát, đắp vào vết thương sẽ làm tiêu mủ, giảm sưng, vết thương mau liền, chóng lên sẹo.

    - Chữa sẹo lồi, mụn lồi: Lá tươi rửa sạch, liều lượng tùy theo nhu cầu, cho thêm một dúm muối, giã nát, đắp vào vùng sẹo, mụn lồi, sẽ làm tam sẹo, mụn lồi. Đắp đến khi mặt da phằng thì ngừng thuốc.

    3.2. Theo kinh nghiệm dân gian.

    Tài liệu nói về cây Hoàn ngọc lưu truyền trong dân gian rất nhiều, nhưng có một bài được cho là của GS Phạm Khuê, do ông Nguyễn Văn Cứng ở Melbourne cung cấp. Đó là một bài viết khá đầy đủ, giọng văn vừa trí tuệ với tầm hiểu sâu, biết rộng, vừa khiêm tốn, rất giống với văn phong của GS Phạm Khuê. Chỉ tiếc là nay GS Phạm Khuê đã "đi xa" nên chúng tôi không có điều kiện xác minh. Nhưng thiết tưởng, cây Hoàn ngọc không có độc, mà kinh nghiệm dân gian thì rất phong phú, nhiều bài thuốc hay, cây thuốc rất tốt nhưng các nhà khoa học chưa có điều kiện nghiên cứu, thẩm định.
    Riêng cây Hoàn ngọc này đã nhiều người dùng đều thấy có kết quả, nhất là dùng cho những người mắc bệnh hiểm nghèo, thuộc loại nan y như ung thư, HIV/AIDS... thì nên áp dụng theo cách mà GS Phạm Khuê chỉ dẫn và ông Nguyễn Văn Cứng đã cung cấp. Đặc biệt đối với người nghèo, bệnh trọng. Kính mong quý vị tham khảo, nếu có điều kiện thì áp dụng hoặc mách cho bạn bè, người thân áp dụng, vì với những bài thuốc rẻ tiền, công hiệu thì càng nhiều người biết, áp dụng, chữa khỏi bệnh, càng tốt.

    Dưới đây là toàn văn bài viết của GS Phạm Khuê do ông Nguyễn Văn Cứng cung cấp.

    BS Nguyễn Đức Kiệt



    Cây Hoàn ngọc hay cây Nhật - Nguyệt

    (Bản Việt ngữ của GS Phạm Khuê, do ông Nguyễn Văn Cứng ở Melbourne gởi tặng)

    Từ một hiệu quả điều trị cho một bệnh nhân bị ung thư gan, sau khi các loại thuốc đã bó tay, khi được ăn những lá tươi xanh người bệnh đã có những chuyển biến bất ngờ. Nhiệt độ từ 39,5oC hạ xuống còn 37o, cơn đau bớt hẳn, nước da bớt vàng, bụng nhỏ lại, người nhẹ nhàng, bệnh nhân có thể ngồi dậy tiếp chuyện.

    Biểu hiện công hiệu của thuốc như sau: Sau khoảng từ 20 phút đến một giờ thuốc có tác dụng. Nếu ăn 5 lá giảm đau được 3 giờ, 7 lá giảm đau được 5 giờ, tương đương với một liều thuốc đặc trị. Thực tế ấy làm cho gia đình người bệnh ngạc nhiên, phấn khởi nhưng với lòng luyến tiếc bởi nếu dùng thuốc sớm hơn thì kết quả có thể hy vọng cứu được người bệnh. Dùng lá trong lúc bệnh tình đã đến giai đoạn cuối nhưng gây được chuyển biến như vậy thì thật tuyệt vời. Ðó là cây “Hoàn ngọc”, Cây thuốc cực kỳ quý giá. Một món quà thiên nhiên tặng cho con người. Xuất xứ cây này được gọi là cây “con khỉ” vốn là vì khỉ ăn chữa khỏi bệnh thủng ruột, nhưng sau đổi thành “Hoàn ngọc” vì đã trả lại cho chú bé hòn dái bị biến mất do trò chơi nghịch đá vào bìu nhau.

    Cây thuốc rất đa năng. Từ hồi phục trạng thái của cơ thể khỏe mạnh đến các bệnh thông thường cũng như hiểm nghèo. Cây thuốc như cứu tinh trong nhiều trường hợp thúc bách, không rõ nguyên căn, nhưng sau khi ăn, diễn biến của bệnh tương tự như một hành động điều trị, điều chỉnh trạng thái cơ thể, chỗ nào yếu điều trị chỗ đó.

    Công dụng và cách dùng:

    - Dùng lá tươi ăn ngay hoặc xay lấy nước uống, hay nấu chín lá ăn như canh.

    - Tác dụng chủ yếu là chất nước trong lá. Lá tươi không có mùi vị, dễ ăn, liều lượng nhiều hay ít tùy thuộc vào từng người. Thông thường nên ăn từ 1- 7 lá và ăn nhiều lần. Mỗi lần không quá 10 lá. Vỏ cây hoặc vỏ rễ có thể ngâm bằng rượu hoặc nấu lấy nước. Uống quá liều có thể phản ứng nhẹ như người bị choáng váng nhưng chỉ sau 10 – 15 phút là khỏi. Dùng chữa các bệnh chủ yếu sau đây:

    1. Khôi phục sức khỏe cho người mới ốm dậy, người già, suy nhược thần kinh, làm việc quá sức, mệt mỏi toàn than… ngày ăn 2 lần, mỗi lần 3-7 lá x 10 – 15 ngày.

    2. Cảm cúm, sốt cao: Ăn 8 lá, cách nhau 1 giờ, sau 3 lần sẽ hạ sốt, hết đau đầu.

    3. Chấn thương chảy máu, dập gãy cơ thể, dùng như nước uống và thuốc đắp. Ðặc biệt hiệu nghiệm với vết thương sọ não.

    4. Khi bị nhiều bệnh một lúc như: Bệnh đường ruột, cảm cúm, gan, thận, tràn dịch màng phổi… đều dùng tốt.

    5. Tiêu chảy, tả, lỵ, rối loạn tiêu hóa: 7-15 lá, dùng 2 lần là khỏi.

    5. Viêm loét dạ dày, tá tràng, đại tràng, trĩ nội: ăn 2 lần/ngày, mỗi lần ≈ 7 lá. Khoảng 50 lá là khỏi. Chảy máu đường ruột: nhai tươi hoặc giã lấy nước đặc uống, 7–10 lá, ≈ 1-2 lần là khỏi. Viêm đại tràng co thắt: Ăn như trên 100 lá, kết hợp ăn lá mơ lông trong bữa ăn. Ăn từ 1 đến 2 tháng.

    6. Ðau gan, viêm gan, xơ gan: Ngày 2-3 lần, mỗi lần 7 lá, dùng ≈ 150 lá.

    7. Viêm thận, viêm đường tiết niệu, đái ra máu, đái buốt, đái dục, đái gắt, bìu đau nhức: Ăn từ 14-21 lá hoặc giã uống nước, ăn 150 lá đến 200 lá khỏi hẳn.

    8. Ðau thận thường xuyên, đau bên trong không rõ nguyên nhân: ngày 3 lần, mỗi lần 3-7 lá, dùng không quá 50 lá, chỉ khoảng 30 lá là dứt cơn đau.

    9. Ðau mắt đỏ, mắt trắng, đau ứ máu: đắp 3 lá vào mắt sau một đêm là khỏi.

    10. Phụ nữ đang cho con bú bị sa dạ con ăn lá không ảnh hưởng gì đến sữa.

    11. Người có bệnh huyết áp (cao hoặc thấp), rối loạn thần kinh thực vật ăn lá thuốc đều có hiệu quả, đều khỏi.

    12. Chữa bệnh cho gia súc, gia cầm: Chó cảnh đẻ ăn 1 lá sau 1 ngày đẻ là mạnh ngay. Chó Nhật đẻ một ngày cho ăn lá sạch ngay. Gà chọi sau khi chọi cho ăn 1-3 lá nó hồi phục sức gấp 3 lần.

    Theo tôi dùng chữ “Thần dược” với cây thuốc nầy cũng không quá. Là một nhà nghiên cứu tôi muốn đặt câu hỏi “Tại sao?” để chúng ta bàn luận. Tại sao khi ăn thuốc có khả năng hiệu chỉnh làm cơ thể ổn định? Có lẽ nhờ phân tích hóa chất gì đó đã tạo nên những hiệu quả như vậy. Chúng ta tốn rất nhiều thời gian và phải có thí nghiệm tốt. Theo kinh nghiệm trong dân gian, ta hãy rút ra từ thực tế. Ví dụ: Suy nhược thần kinh nặng, huyết áp cao, huyết áp thấp, đái ra máu, đái gắt đều chữa được rất nhanh chóng. Có những bệnh xem như đối lập nhau cho một loại thuốc nhưng ngược lại thuốc vẫn chữa được. Phải chăng theo quy luật bảo toàn, cơ thể con người có khả năng bảo tồn lấy sức khỏe nên đã tự động tăng sức đề kháng hoặc tự điều chỉnh, tự cân bằng tương đối để thắng bệnh tật. Khi ta dùng “Hoàn ngọc”, lá thuốc này có tác dụng chữa bệnh như châm cứu, tức là tự động điều chỉnh lại cơ thể để khắc phục bệnh tật do tự tác dụng, tự cân bằng âm dương. Vì vậy cây còn có tên là “Nhật Nguyệt”. Chính vì thế mới có khả năng chữa nhiều bệnh cùng một lúc như vậy. Từ những suy nghĩ đó, chúng tôi đã vận dụng để chữa rất nhiều bệnh và phục hồi sức khỏe. Tuy nhiên với từng người còn phải có liều lượng cho phù hợp do tính chất cân bằng âm dương và hàn nhiệt của từng người.

    Về hình thức cây thuốc:

    Ðây là loại cây lá dài nhọn, mặt sau hơi nhạt, hình lá tương tự màu cây, cây cứng không có hoa, cây có lá mọc đối xứng, kẻ lá chồi cành cây chúc ngược lên, lá nó không bền mà chỉ vàng một chút là rụng ngay. Cây có sức sống khỏe như cành mọc thẳng, nhân giống chủ yếu bằng ngọn cây cắm xuống đất. Làm thuốc là để tự cứu lấy mình và cứu người khi có điều kiện. Ðây là những kinh nghiệm của bản thân tôi, tôi không dám phổ biến sợ người hiểu biết hơn cho là hồ đồ. Song nếu các bạn thu kết quả gì đó thì lấy đó làm kinh nghiệm. Mặt khác khi thu được kinh nghiệm thì nên trao đổi.

    GS Phạm Khuê

  4. Những thành viên đã cảm ơn Charles cho bài viết này:

    Nguyen Ha (27-05-2015)

  5. #3
    Thành Viên Charles's Avatar
    Ngày tham gia
    15-04-2013
    Giới tính
    Nam
    Bài viết
    56,883
    Cảm ơn
    596
    Được cảm ơn: 12,648 lần
    Tác dụng chữa bệnh của cây hoàn ngọc

    Có nhiều đánh giá khác nhau về tác dụng chữa bệnh của cây Hoàn ngọc âm và Hoàn ngọc dương. Nghiên cứu của TSKH. Trần Công Khánh cho thấy có nhiều tác dụng chữa bệnh của hai cây thuốc quý này.



    Cây Xuân hoa chữa được nhiều bệnh mà
    TSKH. Trần Công Khánh đã dày công nghiên cứu
    Cây Xuân hoa (tên dân gian gọi là Hoàn ngọc, Hoàn ngọc âm, +Nhật nguyệt, Nội đồng, Lay gàm, Dièng tòn pièng (Dao), Nhần nhéng (Mường), Tu lình… là câu chuyện thú vị về một công trình khoa học của TSKH. Trần Công Khánh. Là cây thuốc dân gian, trước đây Xuân hoa chưa có tên trong các sách về cây thuốc ở Việt Nam. Năm 1987, một người bạn cho ông biết thông tin về một loại cây dân gian gọi là: "Nội đồng, Hoàn ngọc…”. Ăn lá cây này có thể chữa được các bệnh đường ruột. Ông đã xin mấy cành mang về ươm trồng trong vườn thực vật của trường Đại học Dược Hà Nội. Sau mấy năm, cây ra hoa, Ông đã xác định được tên khoa học của nó là Pseuderanthemum palatiferum (Wall.) Radlk., thuộc họ Ô rô (Acanthaceae), và đặt tên chính thức cho nó là Xuân hoa.

    Khi đã biết tên La tinh, TSKH. Trần Công Khánh tiếp tục tìm các thông tin khoa học trên thế giới về cây này. Một Trung tâm dữ liệu về thực vật của Mỹ (ở Chicago) đã xác nhận cây Xuân hoa chưa có ai nghiên cứu. Đối với nhà khoa học thì đây là một tin đáng mừng. Từ năm 1990, nhóm nghiên cứu do ông chủ trì đã bắt đầu nghiên cứu cây Xuân hoa từ thực vật, hóa học, đến các tác dụng sinh học của nó.

    Xuân hoa là một cây bụi, cao 1-3m, sống nhiều năm, thân non mềm màu xanh lục, thân già hoá gỗ màu nâu, nhiều cành mảnh. Lá mọc đối, cuống lá dài 1,5-2,5cm, phiến lá mềm, hình mũi mác... Cụm hoa là xim dài 10-16cm ở đầu cành, mang nhiều hoa màu trắng. Hiện nay, cây Xuân hoa được trồng khá phổ biến ở Việt Nam để làm thuốc.

    Cho đến nay, những ứng dụng chữa bệnh của cây Xuân hoa được nhiều người sử dụng điều trị những bệnh tiêu chảy, nhiễm khuẩn đường tiêu hoá, viêm đại tràng mạn tính, trĩ nội, cầm máu ngoài da. Ngoài ra, nó còn được dùng hỗ trợ để chữa các bệnh phổi, bệnh tiểu đường, cao huyết áp, mất ngủ, bệnh vẩy nến, v.v... Lá Xuân hoa không có mùi, không vị, hơi nhớt. Khi dùng thì rửa sạch, nhai với mấy hạt muối rồi chiêu nước. Có thể dùng lá đã phơi khô hoặc nấu canh để ăn. Liều dùng tuỳ thuộc vào bệnh, người lớn ăn 7-9 lá, ngày hai lần. Nếu bị rối loạn tiêu hoá, tiêu chảy, lỵ trực khuẩn, chỉ dùng vài lần là khỏi; bị đái rắt, đái buốt, đái ra máu, thì dùng 3-4 ngày; bị viêm đại tràng co thắt điều trị khoảng hai tuần.



    Bán tự mốc (tức Hoàn ngọc dương, cây mầm lá đỏ, thân đỏ)
    (Ảnh do TSKH. Trần Công Khánh cung cấp)

    Ở Việt Nam, còn có một cây gọi là Xuân hoa đỏ, hoặc Nhớt tím, có ở Khánh Hoà (Nha Trang). Nó cũng được trồng ở nhiều nơi làm cảnh như ở Cần Thơ và TP Hồ Chí Minh. Theo kinh nghiệm dân gian, người ta dùng cây này để chữa lở miệng và làm lành vết thương.

    Về cây Hoàn ngọc dương theo dân gian gọi, có tên khác là Hoàn ngọc đỏ (vì ngọn, lá non và thân có màu đỏ tía), theo TSKH. Trần Công Khánh là cây Bán tự mốc, tên khoa học là Hemigraphis glaucescens C.B Clarke, họ Ô rô (Acanthaceae). Đây là cây bụi nhỏ, cao khoảng một mét hoặc hơn, sống nhiều năm, thân và cành mảnh, đường kính khoảng 2-4mm, phần gốc thân khoảng 7-10mm, thân non hơi vuông, màu đỏ tía, đốt dài 6-8cm, các mấu hơi phình to. Lá nguyên, nhẵn, mọc đối, mặt trên màu lục thẫm, mặt dưới màu xanh nhạt, phiến lá hình thoi hẹp. Các lá non ở ngọn có màu đỏ tía. Cụm hoa dạng bông dài 2-3cm, ở đầu cành… Cây Bán tự mốc mọc hoang và cũng được trồng nhiều nơi ở nước ta, từ Nam ra Bắc, từ đồng bằng đến miền núi.

    Cây Bán tự mốc có các chất flavonoid (0,70 - 0,77%), tanin (0,84%), saponin, đường khử. Ngoài ra, còn có sterol và chất béo. Theo kinh nghiệm dân gian, phần trên mặt đất của cây dùng chữa viêm đại tràng cấp và mạn tính, rối loạn tiêu hoá, đau bụng co thắt, đầy chướng bụng, trĩ nội chảy máu, đại tiện ra máu, chảy máu do chấn thương. Có nơi dùng chữa viêm loét dạ dày (ở Thái Nguyên), hoặc chữa bệnh cao huyết áp (ở Hoà Bình). Lá có thể dùng tươi, hoặc cây khô sắc với nước rồi uống. Lá rửa sạch rồi nhai nuốt nước, nhả bã. Ngày ăn ba lần vào lúc đói, mỗi lần 20 lá. Dùng ngoài: Lá tươi giã nát, đắp vết thương rồi băng lại. Lá non được dùng ăn như rau sống để tăng vị hơi chua chát và phòng đầy bụng. Bán tự mốc chủ yếu được dùng trong dân gian, tránh nhầm lẫn với cây Xuân hoa.

    MÔ TẢ:
    Cây HÒAN NGỌC còn gọi là cây "Nhật Nguyệt", và nhiều tên nửa là "Tú Linh", "Thần dưỡng sinh"... có tên khoa học là Pseuderanthemur thuộc họ Ô Rô (Acanthaceae). Có lẽ, chưa có một cây thuốc nào mà lại có nhiều tính năng trị bệnh như vậy.

    Truyền thuyết, Hoàn Ngọc vốn là cây mọc hoang trong rừng Cao Lạng, cây mọc và sống rất dễ dàng, một năm có thể cao 3 mét. Lá mềm, không xơ, dài nhọn, mặt phải xanh thẫm, mặt trái xanh nhạt. Lá già hơi đắng,lá non nhỏ không mùi vị. Lá mọc đối xứng tạo thành mắt, lá vàng dễ rụng. Về mùa xuân, cây ra hoa thành chùm ở cuối cành, cuốn hoa ngắn, ống hoa dài, hoa có 6 cành nhỏ, màu trắng tím nhạt, không thấy quả. Thân cây già, màu xám nâu, rễ mọc chùm, không có rễ cái. Cây có sức
    sống khỏe, rất thích nước. Vì vậy mà vào mùa mưa cây phát triển mạnh mẽ, vọt cao rất nhanh, cành lá xum xuê.

    CÁCH DÙNG VÀ LIỀU LƯỢNG:

    Người ta dùng lá tươi là chủ yếu. Nhưng trong trường hợp, ở phòng thuốc dùng lá khô cũng tốt, nhưng phải một nắm lá trọn bàn tay, và sắc theo kiểu cổ điển: nước nhất, 3 chén, còn lại 1 chén, nước nhì, 2 chén còn 8 phân.

    -Còn lá tươi thì ăn ngay, giã hay xay sinh tố uống, hoặc là nấu canh ăn. Liều lượng trong 1 ngày dùng trọn nắm lá chia đều 3 buổi sáng, trưa, chiều.

    - Thông thường, nhai từ 7 lá đến 10 lá, bệnh nhẹ nhai 3 lần , bệnh nặng nhai 6 lần. Mỗi lần nhai không quá 10 lá, nếu không biết mà nhai quá liều thì bị choáng nhẹ, nhưng không sao chỉ trong vòng 10 đến 15 phút là khỏi.

    CÔNG DỤNG :

    1.Chữa các bệnh về đường tiêu hóa
    : đi lỏng, rối loạn tiêu hóa, táo bón, đau bụng .
    - Ăn từ 7 đến 9 lá , một ngày 4 lần . Ba ngày lành bệnh.
    - Nếu đau bụng mà nghi là đau ruột thừa chưa kịp đi cấp cứu ( vì bệnh viện xa nhà ), ăn liều cao: 15 đến 20 lá, bình tĩnh cứ ráng nhai cho kỷ, ăn 4 lần trong vòng 1 đến 2 giờ, cơn đau không còn bức bách, sẽ giảm nhẹ, và tiếp tục phải đi bệnh viện cấp cứu.

    2. Bệnh kèm theo chảy máu
    :
    chảy máu dạ dày, đường ruột, phân có máu, đi tiểu ra máu kể cả đái buốt, đái gắt (đái nhỏ giọt và nóng ).
    - Lấy 1 nắm lá tươi, đổ 2 chén nước, nấu còn 1 chén, uống sáng sớm khi chưa
    ăn gì, hoặc lúc bụng đói, hoặc là nấu canh nhạt, ăn 1 bát nhỏ. Ăn 1 ngày 3 lần sáng, trưa, chiều. Một tuần là hết bệnh.

    3. Bệnh ung thư thời kỳ mới phát,
    bệnh nhân thường đau nhức nhiều, ăn ngủ không được.
    - Nhai chậm chậm 10 lá (nhớ là phải nhai sao cho có nước miếng). Ăn lá xong, sau 20 phút là cơn đau giảm dần. Cứ như thế, một ngày 5 lần. Sau 3 tháng, hết ung thư .

    ***** Nếu ung thư đã lâu cũng không nên bi quan, cứ nhai chậm 15 lá, một ngày 6 lần. Nhưng sáng sớm uống 1 ly nắm lá xay sinh tố, tối uống 1 ly nắm lá nấu chín ( một nắm lá bằng nắm tay bệnh nhân ). Nên nhớ là kiêng đạm động vật (thịt heo, gà , bò..) vì những thức ăn nầy làm cho tế bào ung thư sinh sản mau chóng .Bạn có rất nhiều hy vọng, không dám nói là chữa lành ung thư, nhưng điều thấy trước mắt là bạn đở nhức nhối .Mong bạn kiên nhẫn , thực hiện xem sao, còn nước, còn tát mà.
    (Ung thư là bệnh Trơì kêu ai, nấy dạ. Mong bạn đừng bi quan, cứ vừa ăn lá Hoàn Ngọc, vừa niệm A-DI-ĐÀ-PHẬT, rất nhiều hy vọng khỏi bệnh).


    4. Chữa các bệnh u xơ phổi, tiền liệt tuyến
    :

    - một nắm lá tươi xay sinh tố với 1 chén nước, uống trước bữa ăn. Mỗi ngày 3 lần, uống 1 tháng hết bệnh.


    5 Các bệnh về gan : xơ gan củ trướng, viêm gan:

    -
    Ăn 10 lá tươi khi bụng còn đói. Một ngày 3 lần.
    - Lá phơi khô xay bột, hòa với bột Tam Thất theo tỉ lệ 1/1, chính là thuốc trị xơ gan củ chướng đặc hiệu. Bệnh nhân uống trước bửa ăn 1 muổng cà phê, 1 ngày 3 lần. Bụng cảm thấy nhẹ và xẹp dần. Hai tháng hết hẳn.


    6. Bệnh về thận:
    viêm thận cấp, hoặc mãn, suy thận, các hiện tượng, đái đục, đái ra máu: Nhai 9 lá, 1 ngày 3 lần. Sau 1 tháng các triệu chứng trên giãm dần và... hết bệnh.

    7.Chữa viêm lóet :

    - Ăn lá tươi khi bụng còn đói, nhất là buổi sáng, mỗi lần 7 lá, 3 lần buổi sáng, 2 lần buổi chiều. Chỉ cần ăn trong 2 tuần. Sau khi lành bệnh, tuyệt đối cấm uống rượu. Nếu uống rượu thì bệnh phát nặng hơn và không chữa bằng lá hoàn ngọc được !


    8. Điều chỉnh huyết áp, ổn định thần kinh
    :
    - Khi biến đổi huyết áp (cao hay thấp ), nhai chậm , rất chậm 9 lá ( cho nước miếng quyện vào lá. Ăn xong, nằm nhắm mắt nghỉ ngơi trong thời gian ngắn khoảng 15 phút thì huyết áp sẽ trở lại bình thường .


    9. Chữa về chấn thương
    :
    Các loại chấn thương, chảy máu, gảy, dập xương hay bắp thịt... Lá hòan ngọc già có tác dụng cầm máu, khôi phục các mô cơ bị dập, viêm nhiễm .
    - Tùy vết thương nặng, nhẹ, to, nhỏ...mà nhai lá đấp vào vết thương. Trước hết, cầm máu, sau thì đấp lá và băng lại. Khỏang 2, 3 giờ sau thì thay băng.


    10. Khi cảm cúm
    :
    có hiện tượng đau đầu, sốt, mệt mỏi, ngứa cổ ho khan :
    - Ăn 8 lá, cứ cách 1 giờ ăn 8 lá, 3 lần như thế cơn sốt nhanh chóng hạ, hết đau đầu. Còn mệt ăn cháo cá hay cháo thịt nấu với lá hòan ngọc, hành, gừng, tiêu. Một ngày sau sẽ trở lại bình thường.
    Theo nghiên cứu của Viện khoa học Hoa Kỳ năm 1981, lá Hoàn Ngọc có đề kháng rất mạnh chống Virus cúm ở người, cũng như ở con gà, con vịt ( dân gian còn gọi là mắc dịch )


    11. Khôi phục
    sức khỏe
    :
    Khi mệt mỏi toàn thân vì lao động nhiều, hay bệnh mới hết, biếng ăn, khó ngủ:
    - Sáng trước khi ăn điểm tâm, nhai 5 đến 7 lá. Tối trước khi đi ngủ nhai 5 đến 7 lá. Cứ như thế khoảng 1 tuần lễ thì rất khỏe.

    PHƯƠNG PHÁP NHÂN GIỐNG VÀ TRỒNG CÂY :
    - Lúc đầu ta chỉ cần có 1 cây.
    - Sau khi mọc nhánh được trên 3 đốt, ta cắt đốt thứ 3
    - và cắm 1 đốt xuống đất .Nên che nắng và giữ độ ẩm .
    - Sau 1 tuần, nếu ngọn không héo thì cây đã bén rễ.
    ***** Khi ngắt lá, tránh ngắt hết cuốn, cành sẽ chay (cứng) sẽ không ra lá nữa.Ta nên cắt từ đầu thân lá .

    CHỐNG CHỈ ĐỊNH : CÂY HOÀN NGỌC KHÔNG CÓ CHỐNG CHỈ ĐỊNH :
    Cây Hoàn ngọc không độc, không đề kháng thuốc, sau khi phân chất gồm có: sterol, đường tự do, carotenoit, flovonoit, acit hửu cơ. Không có biểu hiện khác thường nào đối với người dùng.


    CHÚ Ý :

    1./ Theo Tiến sĩ, Bác sĩ Lê Thế Trung
    cây Hoàn ngọc đã được chữa trị trên lâm sàng, các bệnh nhân ở bệnh viện 103, thì hiệu quả rất đáng tin cậy . Quí vị phải tuân thủ theo hướng dẫn và liều lượng như trên .

    2/ Nước bọt đóng vai trò quan trọng trong chữa bệnh, nhất là phải nhai chậm cùng với lá hòan ngọc
    .

    3/ Khi điều trị phụ nử đang cho con bú, không ảnh hưởng đến tuyến sửa.


    4/ Các súc vật như chó, gà, chim bồ câu, và cả chuột rất thích lá cây nầy. Lợn ăn lá sẽ kích thích tiêu hóa và mau lớn.


    KẾT LUẬN:
    Tôi là người đã có kinh nghiệm chữa trị bằng cây Hoàn Ngọc.Do đó, tôi xin phép cống hiến cái hay, cái lạ cho quý vị, góp phần làm từ thiện .Nếu không tin, xin quý vị thử dùng cho biết, không có hại gì cả.


    Công dụng của cây hoàn ngọc


    QĐND - Cây hoàn ngọc
    (xem ảnh) còn có tên là cây con khỉ, họ Ô rô (Acantaceae). Trong tự nhiên, có hai loại là hoàn ngọc đỏ (Pseuderanthemum bracteatum) và cây hoàn ngọc trắng (Pseuderanthemum palatiferum).


    Thứ nhất, cây hoàn ngọc đỏ (cây xuân hoa lá hoa), là cây bụi, cao từ 0,6 đến 1,5m, sống lâu năm. Lúc còn non, thân trơn nhẵn, màu hơi vàng hồng, lá đơn, nguyên, mọc đối, cuống lá dài, phiến lá hình mũi mác. Lá non có vị chát, hơi chua, thường được dùng ăn kèm với thịt, cá như một loại rau gia vị để giúp cho việc tiêu hóa tốt, tránh đầy bụng, sôi bụng, đau bụng. Cây ra hoa vào tháng 12 năm trước đến tháng 2 năm sau, khi đó người dân cắt lấy phần trên mặt đất, gồm các cành non và lá, rửa sạch phơi khô. Khi dùng cần cắt ra từng đoạn 5 đến 7cm, liều 20 đến 40g/ngày sao vàng, sắc lấy nước uống để chữa bệnh: Đau bụng, quặn bụng, sôi bụng, đầy hơi, đi ngoài phân sống nát, trĩ, đi ngoài ra máu. Ngoài ra, lấy lá tươi, rửa sạch, giã nát đắp và băng chặt vào chỗ vết thương chảy máu có tác dụng cầm máu.Thứ hai, cây hoàn ngọc trắng (cây xuân hoa), cũng thuộc loại cây bụi, phân nhiều cành, có chiều cao khoảng 1- 2m, lá mọc đối, hình mũi mác, đầu lá nhọn, thường xuyên xanh cả hai mặt. Cụm hoa mọc ở kẽ lá hoặc đầu cành có màu trắng pha tím. Khi nhấm, lá có dịch nhầy nhớt. Vị thuốc là lá của cây hoàn ngọc trắng. Hoàn ngọc trắng cũng mọc hoang và được trồng ở nhiều nơi để làm thuốc. Hoàn ngọc trắng cũng được dùng để trị các bệnh viêm nhiễm đường tiêu hóa, rối loạn tiêu hóa... Trên thực tế, hoàn ngọc trắng dùng trị viêm đại tràng thể nhiệt, tốt hơn như táo bón, đau bụng, trĩ xuất huyết. Có thể dùng lá tươi, rửa sạch, ăn sống hoặc sắc lấy nước uống, ngày 8 đến 10g.Để trị viêm loét dạ dày, tá tràng, xuất huyết đường tiêu hóa, trĩ nội, có thể dùng hoàn ngọc trắng, ngày 2 đến 3 lần, mỗi lần 8 đến 10g. Dùng liền 2 tuần lễ. Ngoài ra có thể dùng trị các vết thương khi té ngã bị chảy máu, tụ máu, lở loét... Ngoài ra có thể lấy lá tươi, rửa sạch, giã dập, đắp bó vào nơi bị đau.

    Hoàn ngọc có phải "thuốc chữa bách bệnh"?


    Hoàn ngọc gần như đã trở thành một thứ cây không thể thiếu trong những gia đình may mắn có một khoảng đất, dù là rất nhỏ. Không ít gia chủ còn giữ bên mình những tờ rơi trình bày có vẻ rất "khoa học" về công dụng và cách sử dụng của loại "thần dược" này. Nếu tin vào đó thì không có bệnh gì là không thể chữa khỏi. Thế nhưng, thực tế thì sao?
    Lâu nay, tại TP HCM xuất hiện một tài liệu đề tên tác giả là một tiến sĩ, thiếu tướng, một thầy thuốc nổi tiếng ở Hà Nội và được quảng cáo là kinh nghiệm "đúc kết" sau điều trị cho bệnh nhân trong hơn 2 năm.
    Chữa được vô số bệnh
    Tài liệu liệt kê rất nhiều công dụng của hoàn ngọc:
    - Chữa đi lỏng, lỵ, rối loạn tiêu hoá, táo bón, đau bụng không rõ nguyên nhân (ăn 7-9 lá, khoảng 2-3 lần/ngày cho đến khi khỏi).
    - Nếu nghi đau ruột thừa, khi chưa kịp đi cấp cứu có thể ăn đến 15 lá trong phạm vi 2 giờ, cơn đau sẽ rút và tiếp tục đi cấp cứu.
    - Điều trị chảy máu dạ dày và đường ruột, đái ra máu.
    - Giảm đau trong ung thư gan, phổi, dạ dày… (ăn 2 lần/ngày, mỗi lần 3-7 lá, có thể dùng kéo dài được 6 tháng).
    - Chữa khỏi khối u xơ ở phổi và tuyến tiền liệt, xơ gan cổ trướng, viêm gan, viêm thận cấp hoặc mạn, suy thận…
    - Điều trị được chấn thương sọ não, va đập, gãy dập xương hay bắp thịt: Lá thuốc có tác dụng cầm máu, khôi phục các mô cơ bị dập (với vết thương kín cần nhai lá rồi đắp, với vết thương hở nên giã).
    Tuy nhiên, tài liệu đã "cẩn thận" ghi rõ không phải khi nào có bệnh ăn lá cũng khỏi ngay, rằng phần lớn trường hợp bệnh đều khỏi nhưng cũng có khi không.
    Gần đây, lại xuất hiện thêm một tài liệu khác, mang tựa đề "Cây thuốc kỳ diệu - cây hoàn ngọc hay nhật nguyệt", ghi rõ do một giáo sư đứng đầu một viện về y khoa viết từ năm 1995. Tài liệu này cũng khẳng định đây là một cây thuốc đa năng, cứu tinh trong nhiều trường hợp, với khả năng kỳ tài là "chỗ nào yếu điều trị chỗ ấy". Theo đó, hoàn ngọc chữa được cảm cúm, đau gan, viêm thận, tràn dịch màng phổi, đau mắt đỏ, mắt trắng. Người có huyết áp cao hoặc thấp ăn lá thuốc đều có hiệu quả, ổn định được thần kinh…!

    Chưa thể kết luận

    Theo lương y Đinh Công Bảy, Tổng thư ký Hội Dược liệu TP HCM, Uỷ viên BCH Hội Đông y TP HCM, cần phân biệt 2 loại cây hoàn ngọc:
    - Loại dùng trong chữa bệnh: Có lá hình xoan nhọn, ngắn, màu xanh nhạt, thân đứng, cao khoảng 0,5-1 m, có tên khoa học là Pseuderanthemum palatiferum (Nees), Radlk, thuộc họ ôrô (Acanthaceae).
    - Loại hoàng ngọc lá dài, màu xanh đậm, thân bò, trên 1 m, không dùng chữa bệnh.
    Tiến sĩ Trần Công Khánh cho biết, đã có nghiên cứu, sơ bộ xác định trong lá hoàn ngọc có chứa sterol, coumarin, đường khử, carotenoid và axit hữu cơ. Thuốc này được ghi nhận trong dân gian, nhưng mới sử dụng điều trị bệnh trong thời gian gần đây nên chưa được đúc kết kinh nghiệm, cần có thời gian và các phương pháp nghiên cứu khoa học kiểm chứng mới có thể đưa ra kết luận cụ thể. Riêng về tác dụng giảm đau của hoàn ngọc, ông khẳng định là chưa ghi nhận được bất cứ trường hợp lâm sàng nào.
    Một số công dụng được ghi nhận
    Ông Khánh cũng cho biết, trong thực tế, cây hoàn ngọc có công hiệu tốt đối với một số bệnh thuộc hệ tiêu hoá như viêm loét dạ dày, rối loạn tiêu hoá, nhiễm khuẩn đường ruột, chữa đái buốt, đái ra máu, bị chấn thương.
    Cách dùng:
    - Rửa lá thật sạch, nhai với chút muối cho nhừ rồi nuốt. Có thể giã nát, hoà với nước để uống, hoặc lấy lá nấu canh nhạt để ăn.
    - Liều lượng 2-8 lá/ngày, chia làm 2 lần, trước bữa ăn.
    - Thời gian điều trị 7-20 ngày, tuỳ loại bệnh và mức độ của bệnh.
    - Không nên sử dụng quá 10 lá vì có thể gây cảm giác khó chịu.
    Như vậy, chúng ta nên thận trọng khi sử dụng loại lá thuốc này và đừng quá tin vào nó, khi có bệnh cần đi khám bác sĩ chuyên khoa để có hướng điều trị kịp thời.

    Với bệnh ung thư – cây hoàn ngọc đã được chứng minh


    -
    Nhiều bạn đọc đã gọi điện thắc mắc, thực hư công dụng của cây hoàn ngọc với bệnh ung thư? Cây hoàn ngọc đã được nghiên cứu, chứng minh như thế nào? Để trả lời những câu hỏi của bạn đọc chúng tôi đã tham khảo ý kiến của các nhà khoa học và cập nhật những thông tin mới nhất về tác dụng phòng chống khối u của cây hoàn ngọc.
    Năm 2007, các nhà khoa học Viện hóa học – Viện khoa học công nghệ Việt Nam đã nghiên cứu thành phần hóa học và hoạt tính sinh học từ rễ cây hoàn ngọc thu hái tại vườn trồng của DNTN trà hoàn ngọc 7 Nga Tây Ninh. Trong quá trình nghiên cứu, từ rễ cây Hoàn Ngọc (HN), đã phân lập được một số chất có khả năng kháng u thuộc lớp chất tritecpen là lupeol, betulin và lupenone. Có hàm lượng lớn nhất là 2 chất lupeol và betulin. Đây là 2 chất tritecpen có phổ hoạt tính sinh học rộng, đã có rất nhiều công trình khoa học trên thế giới công bố về hoạt tính sinh học của các chất này.

    Cây hoàn ngọc
    Hai thành phần chính của rễ cây cũng đã bước đầu được nghiên cứu về hoạt tính gây độc tế bào đối với ba dòng tế bào ung thư vú MCF-7, ung thư gan Hep-G2 và ung thư biểu mô KB. Betulin có hoạt tính trên cả ba dòng tế bào được thử MCF-7 (IC50 6,65 µg/ml), Hep-G2 (IC50 32 µg/ml) và KB (IC50 26 µg/ml), còn lupeol có tác dụng đối với dòng tế bào ung thư vú MFC-7 với IC50 là 18,29 µg/ml.

    Tính đến năm 2009, đã có trên 50 công trình công bố về hoạt tính phòng chống và chữa bệnh của lupeol và betulin.

    Trên cơ sở các kết quả đã nghiên cứu về thành phần hóa học của rễ cây HN, trong khuôn khổ đề tài “Nghiên cứu quy trình công nghệ tạo chế phẩm hỗ trợ phòng chống khối u từ cây hoàn ngọc” của TS. Nguyễn Thị Minh Hằng và các cộng sự Viện Hóa sinh biển – Viện Khoa học Công nghệ Việt Nam đã xây dựng một quy trình chiết xuất được chế phẩm. Trong đó có tổng hàm lượng lupeol và betulin lớn hơn 80% và đã thử khả năng kháng u của chế phẩm này cùng một số chế phẩm khác từ cây HN.

    Theo đề tài này, sản phẩm tổng tritecpen chiết xuất từ cây hoàn ngọc (Tritecpen-HN) đã được nghiên cứu độc tính cấp, độc tính bán trường diễn và khả năng kháng u. Kết quả cho thấy Tritecpen-HN không gây độc cấp tính trên chuột thực nghiệm (theo tiêu chuẩn của tổ chức OECD). Ở mức liều trung bình và thấp là nhỏ hơn hoặc bằng 500 mg/kgP/ngày, Tritecpen-HN không gây độc bán trường diễn trong khoảng thời gian nghiên cứu 30 ngày, không ảnh hưởng đến các chỉ tiêu huyết học và một số enzyme chức năng gan, thận là SGPT, SGOT và Creatinin.

    Tritecpen-HN có khả năng kéo dài tuổi thọ cho chuột bị u thực nghiệm ở mức liều trung bình. Tritecpen-HN có khả năng ức chế sự phát triển của tế bào ung thư trong các khối u thực nghiệm trên mô hình chuột bị gây ung thư in vivo, cụ thể như sau: Tritecpen-HN liều 500 mg/kgP/ngày có khả năng ức chế 19,99% sự phát triển của các tế bào ung thư so với đối chứng. Tritecpen-HN liều 1000 mg/kgP/ngày có khả năng ức chế 63,85% sự phát triển của các tế bào ung thư so với lô đối chứng.


    Chuột bị gây u bằng dòng tế bào LLC.
    Về khả năng kháng u của cao dịch chiết nước từ rễ cây HN. Kết quả cho thấy với liều 3000 mg/kgP/ngày cao dịch chiết nước có khả năng ức chế 19,82 % sự phát triển của các tế bào ung thư so với đối chứng. Cao dịch chiết nước từ rễ cây HN liều 5000 mg/kgP/ngày có khả năng ức chế 37,03% và liều 7000 mg/kgP/ngày có khả năng ức chế 60,68% sự phát triển của các tế bào ung thư so với lô đối chứng .

    Khối lượng u nhỏ dần theo liều tiêm của dịch chiết từ cây hoàn ngọc.
    Ngoài ra các nhà khoa học đã nghiên cứu độc tính cấp và khả năng kháng u của cao chiết etanol 96% của sản phẩm Trà vàng - Hoàn Ngọc 7 Nga Tây Ninh đang được lưu hành trên thị trường. Kết quả thử độc tính cấp đã xác định được giá trị liều LD50 trong khoảng (8,35 ± 0,67) g cao đặc/kg chuột. Kết quả nghiên cứu khả năng kháng u của sản phẩm này cho thấy cao chiết etanol trà vàng HN với liều 1000 mg/kgP/ngày có khả năng ức chế 8,37%, liều 2000 mg/kgP/ngày có khả năng ức chế 15,02% và liều 3000 mg/kgP/ngày có khả năng ức chế 50,16% sự phát triển của các tế bào ung thư so với lô đối chứng.

    Bà Bùi Kim Nga – chủ DNTN Trà Hoàn Ngọc cho biết: Đề tài “Nghiên cứu quy trình công nghệ tạo chế phẩm hỗ trợ phòng chống khối u từ cây hoàn ngọc” là đề tài cấp nhà nước. Theo các kết quả thu được, DN đã được chương trình Hóa Dược phê duyệt và đầu tư dự án sản xuất thử nghiệm 2 sản phẩm dưới dạng viên nang và sẽ ra mắt người tiêu dùng trong cuối năm nay.


    Qua một số bài báo đã đăng tải trên báo Khoa học và Đời sống (số 60 phát hành ngày 19/05/2012, số 66 phát hành ngày 2/06/2012 và một số bài báo khác) có đề cập đến một số nhân vật có hoàn cảnh khó khăn mắc bệnh hiểm nghèo như:

    Anh Nguyễn Hồng Ninh (Khu phố 1, phường Bình Đa, TP Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, ĐT: 01644870239) bị ung thư hạch giai đoạn cuối, viêm gan B.

    Chị Trần Thị Nghi (sinh năm 1958, trú tại Tổ 8, khu phố 5, phường Phước Trung, thị xã Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, ĐT: 0944153289) bị ung thư tử cung…Những bệnh nhân này sau nhiều tháng khăn gói vào bệnh viện tá túc, “vái tứ phương” tìm thầy tìm thuốc nhưng bệnh tình không khỏi mà còn có chiều hướng trầm trọng hơn. Họ đã may mắn “gặp” được trà Hoàn ngọc 7 Nga Tây Ninh, đã thoát được “lưỡi hái tử thần”.
    Cây hoàn ngọc và công dụng trị bệnh đường ruột

    Cây hoàn ngọc còn có tên là cây con khỉ, họ Ô rô (Acantaceae). Có 2 loại là hoàn ngọc đỏ (Pseuderanthemum bracteatum) và cây hoàn ngọc trắng (Pseuderanthemum palatiferum).


    Cây hoàn ngọc đỏ

    Cây hoàn ngọc đỏ còn có tên cây xuân hoa lá hoa, là cây bụi, cao từ 0,6 - 1,5m, sống nhiều năm. Khi còn non, thân trơn nhẵn, mầu hơi vàng hồng, lá đơn, nguyên, mọc đối, cuống lá dài, phiến lá hình mũi mác. Những lá non, ở ngọn có mầu nâu hoặc hơi vàng đỏ, phủ một lớp lông rất mịn. Lá già màu xanh, mặt trên xanh đậm, mặt dưới xanh nhạt. Cụm hoa dạng bông, mọc ở kẽ lá hay đầu cành, tràng hình ống, mau tím nhạt. Cây mọc phổ biến ở một số tỉnh đồng bằng sông Hồng: Thái Bình, Nam Định, Hưng Yên, Hải Dương... Lá non nhấm có vị chát se, hơi chua, thường được dùng ăn kèm với thịt, cá như một loại rau gia vị để giúp cho việc tiêu hóa tốt, tránh đầy bụng, sôi bụng, đau bụng.

    Khi cây bắt đầu ra hoa vào tháng 12 đến tháng 2 năm sau, người ta cắt lấy phần trên mặt đất, gồm các cành non và lá, rửa sạch phơi khô. Khi dùng cần cắt ra từng đoạn 5 - 7cm, sao vàng.

    Hoàn ngọc đỏ có thể dùng để trị các bệnh viêm ruột cấp mạn tính, thuộc thể hàn: đau bụng, quặn bụng, sôi bụng, đầy hơi, đi ngoài phân sống nát, trĩ, đi ngoài ra máu. Ngoài ra còn có tác dụng cầm máu vết thương, lấy lá tươi, rửa sạch, giã nát đắp và băng chặt vào chỗ vết thương chảy máu. Song song có thể dùng lá tươi giã nát vắt lấy nước uống, hoặc sắc lá khô để uống khi bị chảy máu. Có thể dùng riêng hoàn ngọc đỏ với liều 20 - 40g/ngày, sắc uống trị các bệnh đường ruột nói trên. Hoặc phối hợp với một số vị thuốc khác, như hoàn ngọc đỏ 16g, nam mộc hương 12g, hậu phác 12g, trần bì 10g, thương truật 10g, sắc uống, ngày một thang. Uống liền 3 tuần lễ.

    Cây hoàn ngọc trắng

    Cây hoàn ngọc trắng còn gọi là cây xuân hoa, cũng thuộc loại cây bụi, phân nhiều cành, có chiều cao khoảng 1- 2m, lá mọc đối, hình mũi mác, đầu lá nhọn, thường xuyên xanh cả hai mặt. Cụm hoa mọc ở kẽ lá hoặc đầu cành có mầu trắng pha tím. Khi nhấm, lá có dịch nhầy nhớt. Vị thuốc là lá của cây hoàn ngọc trắng. Hoàn ngọc trắng cũng mọc hoang và được trồng ở nhiều nơi để làm thuốc. Hoàn ngọc trắng cũng được dùng để trị các bệnh viêm nhiễm đường tiêu hóa, rối loạn tiêu hóa... Trên thực tế, hoàn ngọc trắng dùng trị viêm đại tràng thể nhiệt, tốt hơn như táo bón, đau bụng, trĩ xuất huyết. Có thể dùng lá tươi, rửa sạch, ăn sống hoặc sắc lấy nước uống, ngày 8-10g.

    Để trị viêm loét dạ dày, tá tràng, xuất huyết đường tiêu hóa, trĩ nội, có thể dùng hoàn ngọc trắng, ngày 2 - 3 lần, mỗi lần 8 - 10g. Dùng liền 2 tuần lễ.

    Ngoài ra có thể dùng trị các vết thương khi té ngã bị chảy máu, tụ máu, lở loét... Lấy lá tươi, rửa sạch, giã dập, đắp bó vào nơi bị đau.


    (st)


  6. Có 2 người đã cảm ơn Charles cho bài viết bổ ích này:

    hanhphuc88 (09-10-2015),nexus7 (13-12-2015)

  7. #4
    Thành viên năng động nhiệt tình.
    Ngày tham gia
    18-07-2009
    Giới tính
    Nam
    Đến từ
    Tp.HCM
    Bài viết
    47,923
    Cảm ơn
    2,578
    Được cảm ơn: 11,968 lần
    Công dụng chữa bệnh của cây hoa bách hợp

    Nguyễn Thu Hương - 06/03/2016 09:34:26

    Nghiên cứu dược lý cho thấy cây hoa bách hợp chứa tinh bột, protein, chất béo, vi lượng colchicine, có tác dụng kháng virus HIV, trị ho lao phổi, phù thũng...


    Cây bách hợp. Ảnh: thucvatduoc.
    Theo tiến sĩ Võ Văn Chi, bách hợp có tên gọi khác là tỏi rừng. Tên khoa học là Lililum brownii F.E. Brown ex Mill, var. viridulum Baker (L. brownii var, colchoesteri Wilson ex Elwes), thuộc họ hoa loa kèn Liliaceae.

    Bách hợp mọc tự nhiên dạng cây thảo cao 0,5-1 m, sống nhiều năm. Cây thân hành to màu trắng đục có khi phớt hồng, gần hình cầu, vẩy nhẵn và dễ gãy. Lá cây mọc so le, hình mác thuôn, mép nguyên, dài 2-15 cm, rộng 0,5-3,5 cm. Cụm hoa mọc ở đầu cành, gồm 2-6 hoa to hình loa kèn dài 14-16 cm, 6 cánh hoa màu trắng hay hơi hồng. Quả nang dài 5-6 cm, có 3 ngăn, chứa nhiều hạt nhỏ trái xoan.

    Loài thực vật này mọc hoang ở các trảng cỏ và bờ nương rẫy vùng núi cao trên 1.000 m, cũng có nơi trồng để lấy thân hành ăn. Người ta trồng bằng giò cây như phương pháp trồng hành tỏi. SCau một năm thu hoạch, thường ngắt hết hoa để cho củ to hơn. Cây ra hoa vào tháng 5-7, có quả vào tháng 8-10. Ở nước ta, bách hợp phân bố tại các tỉnh Lai Châu, Lào Cai, Lạng Sơn, Hà Giang, Kon Tum và cũng có ở nước láng giềng Trung Quốc.

    Bộ phận của cây thường được dùng để chữa bệnh là thân hành, còn gọi là bách hợp. Người ta thu hái vào mùa thu, rửa sạch, bỏ lớp vảy, nấu nước sôi trụng sơ qua, vớt ra rửa lại bằng nước sạch cho hết nhớt rồi phơi hay sấy khô. Bách hợp có tính vị, vị ngọt, tính hơi hàn, có tác dụng nhuận phế, chỉ khái, thanh tâm, an thần. Nhiều nghiên cứu dược lý cho thấy cây này chứa tinh bột, protein, chất béo, vi lượng colchicine, được chứng minh có tác dụng kháng virus HIV.

    Nhiều sách về cây thuốc quý ghi nhận công dụng của bách hợp trong việc chữa trị lao phổi, ho khan hoặc ho đờm quánh, ho ra máu, viêm phế quản, sốt, thần kinh suy nhược, tim đập mạnh, phù thũng. Liều lượng dùng từ 6 đến 515 g.

    Tiến sĩ Võ Văn Chi hướng dẫn bài thuốc chữa HIV/AIDS, ho khan, ứ đờm hoặc đờm có vướng máu, âm hư hỏa lượng, lòng bàn tay sưng như sau: Bách hợp, sinh địa đều 15 g, tiên hạc thảo, bạch hoa xà thiệt thảo đều 20 g, huyền sâm, bạch thược, mạch môn, cam thảo, cát cành đều 10 g. Cho tất cả vào ấm sắc lên để uống mỗi ngày.

    Theo VnExpress

  8. #5
    Thành viên năng động nhiệt tình.
    Ngày tham gia
    18-07-2009
    Giới tính
    Nam
    Đến từ
    Tp.HCM
    Bài viết
    47,923
    Cảm ơn
    2,578
    Được cảm ơn: 11,968 lần
    Cách phân loại cây Hoàn Ngọc.

    Thứ Hai, ngày 14/03/2016 08:00 AM (GMT+7)


    Cây Hoàn Ngọc được xem loại cây có dược tính cao, có thể giúp hỗ trợ phòng và giảm triệu chứng nhiều loại bệnh.



    Tuy nhiên, tại Việt Nam hiện đang có 2 loại cây mà dân gian thường gọi là Hoàn Ngọc âm và Hoàn Ngọc dương. Trong đó, chỉ có Hoàn Ngọc âm mới được nghiên cứu khoa học đầy đủ về các dược tính của nó.


    cây Hoàn Ngọc âm (dân gian gọi là Hoàn Ngọc, Nhật Nguyệt, Nội Đồng …) là cây thuốc dân gian, TSKH. Trần Công Khánh đã xác định được tên khoa học của nó là Pseuderanthemum palatiferum (Wall.) Radlk., thuộc họ Ô rô (Acanthaceae), và đặt tên chính thức là Xuân Hoa.


    Từ năm 1990, nhóm nghiên cứu do TSKH. Trần Công Khánh chủ trì đã bắt đầu nghiên cứu cây Xuân Hoa từ thực vật, hóa học, đến các tác dụng sinh học. Xuân hoa là một cây bụi, cao 1 - 3m, sống nhiều năm, thân non mềm màu xanh lục, thân già hoá gỗ màu nâu, nhiều cành mảnh. Lá mọc đối, cuống lá dài 1,5-2,5cm, phiến lá mềm, hình mũi mác... Hiện nay, cây Xuân Hoa được trồng khá phổ biến ở Việt Nam để làm thuốc.



    Cây Hoàn Ngọc phải được trồng theo đúng tiêu chuẩn tại DNTN trà Hoàn Ngọc 7 Nga Tây Ninh


    Loại cây này đã được DNTN trà Hoàn Ngọc 7 Nga Tây Ninh nghiên cứu sản xuất thành dạng trà túi lọc với chiết xuất từ lá và rễ cây, có chứa chất Flavonoid rất quí (lợi cho tim mạch, động mạch vành...) là tác nhân chính làm tăng tuổi thọ, do có khả năng làm tan xơ vữa động mạch, cặn máu … Bên cạnh đó, còn có tác dụng giúp tăng cường bài tiết, loại bỏ chất độc (giải độc nhanh). Hỗ trợ trị rối loạn tiêu hoá, dạ dày, hành tá tràng, viêm thận cấp, các chứng bệnh phổi, u xơ tuyến tiền liệt, giảm đau khi bị ung thư gan... phòng và chữa bệnh rất hiệu quả, đặc biệt những bệnh phổ biến hiện nay như: huyết áp, đường huyết cao, tiểu đường, các dạng bệnh do nhiễm độc, vi nấm, nhiễm khuẩn, rối loạn chức năng...




    Mẫu chiết xuất từ rễ cây Hoàn Ngọc 7 năm tuổi được trồng và chăm sóc tại DN Trà Hoàn Ngọc 7 Nga Tây Ninh phát hiện chứa nhiều chất quí như: Lupeol, Lupenone, Bentulin, axit Pomolic... có tác dụng: kháng viêm, chống oxi hoá, gây độc tế bào ung thư và
    cản trở quá trình xâm nhập, phát triển của vi rút HIV - AIDS, đặc biệt cơ chế chống nhờn thuốc. Hợp chất hoàn toàn mới có tác dụng tốt nhất trong rễ cây Hoàn Ngọc được các nhà khoa học đặt tên Palatilignan BNGATN (7 Nga Tây Ninh) và đã được đăng ký bảo hộ bản quyền và sáng chế tại Cục Sở hữu trí tuệ Việt Nam.


    Đối với cây Hoàn Ngọc dương (còn gọi là Nhớt Tím, Hoàn Ngọc đỏ - vì ngọn, lá non và thân có màu đỏ tía), theo TSKH. Trần Công Khánh đây là cây Bán Tự Mốc, tên khoa học là Hemigraphis glaucescens C.B Clarke, họ Ô rô (Acanthaceae). Bán Tự Mốc chủ yếu được dùng trong dân gian, chưa được nghiên cứu.

    (Theo Khám phá)

  9. #6
    Thành viên năng động nhiệt tình.
    Ngày tham gia
    18-07-2009
    Giới tính
    Nam
    Đến từ
    Tp.HCM
    Bài viết
    47,923
    Cảm ơn
    2,578
    Được cảm ơn: 11,968 lần
    Hai loại quả hỗ trợ điều trị ung thư đại trực tràng


    Chủ nhật, 20/03/2016 08:49

    Dùng 30 g quả qua lâu sấy khô, kết hợp với 15 g thần khúc, sao khô rồi tán thành bột mỗi lần uống 6 g cùng với nước sắc thông bạch (hành), ngày dùng 2 lần.





    Tiến sĩ Võ Văn Chi, với hàng chục năm nghiên cứu về cây thuốc tại Việt Nam giới thiệu 2 loại quả có tác dụng hỗ trợ điều trị bệnh ung thư, đặc biệt là
    ung thư đại trực tràng như sau:


    Qua lâu



    Cây này còn có tên gọi khác là dưa trời, dây bạc bát, tên khoa học Trichosanthes kirilowii, thuộc họ bầu bí. Đây là loài sống nhiều năm, thân có rãnh, tua cuốn có từ 2 đến 3 nhánh, lá mọc so le, phiến dài từ 5 đến 14 cm, rộng từ 3 đến 5 cm, chia từ 3 đến 5 thùy, dày, dai, mặt trên nhám.


    Qua lâu mọc rải rác trên đất rừng, ven nguồn nước hoặc trên đất cát. Phân bố chủ yếu ở Cao Bằng, Ninh Thuận, Bình Thuận, ngoài ra còn có ở Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản.




    Cây qua lâu. Ảnh: aliexpress

    Người ta thu hoạch qua lâu vào mùa thu lúc quả chín, hái luôn cả cuống đem về treo chỗ mát, tránh làm rách vỏ để giữ nước bên trong quả không chảy ra, rửa sạch phơi trong râm. Rễ thu hái vào mùa thông đông, rửa sạch, thái phiến, sấy khô, cạo bỏ vỏ ngoài, xẻ làm đôi, cắt thành đoạn ngắn khoảng 10 cm rồi tiếp tục sấy khô. Lưu ý: Mỗi liều dùng từ 10 đến 15 g rễ hoặc quả.


    Rễ qua lâu có vị ngọt, hơi đắng, tính hơi hàn, tác dụng thanh nhiệt, tiêu nhũng bài nung, kháng nham, ức nham. Quả có vị ngọt, hơi đắng, tính hàn, tác dụng thanh nhiệt, hóa đàm, khoan hung, nhuận phế, tán kết, tiêu ung nhũng...


    Phân tích dược lý cho thấy qua lâu có hoạt tính chữa bệnh mạch vành tim. Hạt chứa các triterpenoid, sterol, axit béo, hợp chất protein. Các hợp chất protein có tác dụng ức chế hoạt động của ribosan là β-kirolowin và trichosanthin. Rễ chứa các protein karasurin và trichosanthin có tác dụng chống u và virus, kể cả HIV.

    Để hỗ trợ điều trị ung thư đại trực tràng, người ta dùng 30 g quả qua lâu bỏ vỏ sấy khô, kết hợp với 15 g thần khúc. Tất cả sao khô rồi tán thành bột, mỗi lần uống 6 g cùng với nước sắc thông bạch (hành), ngày dùng 2 lần. Loại quả này còn có tác dụng hỗ trợ điều trị ung thư vú, ung thư tuyến tụy, mũi họng, phổi, thực đạo, viêm tuyến vú, tắc kinh...



    Qua lâu trứng



    Cây này còn gọi là hoa bát, tên khoa học Trichosanthes ovigera, thuộc họ bầu bí. Đây là cây thảo leo, sống nhiều năm, thân mảnh, có lông. Phiến lá đa dạng, có từ 3 đến 5 thùy, dài từ 10 đến 15 cm, mép có răng thưa nhọn. Chùm hoa đực dài đến 20 cm. Quả mọng hình bầu dục, dài từ 8 đến 10 cm, rộng từ 2,5 đến 3 cm, không lông. Hạt dài từ 6 đến 7 cm, có phần giữa thuôn, được bao bởi một dải ngang gồ lên.




    Qua lâu trứng. Ảnh: Keys


    Qua lâu trứng mọc ở rừng thứ sinh, trên đất có đá, hàng rào, trảng cây bụi. Tại Việt Nam, loài cây này phân bố nhiều ở Lào Cai, Hòa Bình và Gia Lai, Lâm Đồng...


    Rễ của qua lâu trứng có vị đắng, tính hàn, tác dụng thanh nhiệt, sinh tân, tán ứ, chỉ thống, kháng nham. Quả có vị đắng, tính hàn, giúp thanh nhiệt, sinh tân, thông nhũ...


    Phân tích dược lý cho thấy rễ qua lâu chứa cucurbitacin kết tinh B và E, kaempferitrin, protein, choline, carotene, axit amin. Quả chứa lycopene lycopene, β-carotene... Vỏ quả chứa các axit hữu cơ có tính thăng hoa như axit palmitic, linoleic, lauric, myristic... Thịt quả chứa seroenzyme-A2. Hạt có stigmastanol...


    Để hỗ trợ điều trị ung thư đại trực tràng, người ta dùng 30 g quả qua lâu trứng sao khô, 60 g thần khúc sao vàng. Tất cả tán thành bột, trộn đều, mỗi lần uống 6 g cùng với nước sôi để ấm, ngày dùng 3 lần.


    Theo Trần Ngoan - VnExpress

  10. #7
    Thành Viên Charles's Avatar
    Ngày tham gia
    15-04-2013
    Giới tính
    Nam
    Bài viết
    56,883
    Cảm ơn
    596
    Được cảm ơn: 12,648 lần
    Cây Hoàn Ngọc hỗ trợ điều trị các bệnh viêm nhiễm

    24/03/2016 01:10 GMT+7

    Hoàn Ngọc được coi là loại cây có thể hỗ trợ điều trị “bách bệnh”, trong đó, tính kháng viêm được ghi nhận là một trong những ưu thế của dược thảo này.

    Trong những công trình nghiên cứu, các nhà khoa học đã cho biết hoạt chất từ cây Hoàn Ngọc có thể hỗ trợ phòng chống khối u, tăng sức đề kháng cho cơ thể, đặc biệt là tính kháng viêm phổ rộng. Nó có thể hỗ trợ đẩy lùi các bệnh viêm nhiễm như: viêm thận, viêm mũi, viêm khớp, viêm họng, viêm vú, viêm gan, viêm ruột kết.

    Bà Bùi Kim Nga tại vườn ươm cây giống trà hoàn ngọc
    Một số công trình nghiên cứu về cây Hoàn Ngọc 7 năm tuổi tại khu nuôi trồng của doanh nghiệp 7 Nga Tây Ninh đã phân lập những hoạt chất có trong rễ và lá Hoàn Ngọc có giá trị như luupeool, lupenone, betulin, axit pomolic. Đây là những chất có hoạt lực cao có thể điều chế các loại thuốc dùng điều trị những bệnh viêm nhiễm đơn giản cho đến những bệnh ung thư và HIV - AIDS.

    Từ những công trình nghiên cứu khoa học trên, doanh nghiệp Trà Hoàn Ngọc 7 Nga Tây Ninh đã sản xuất ra trà Hoàn Ngọc sử dụng an toàn, tốt cho sức khỏe và có thể hỗ trợ điều trị một số bệnh trong đó có các bệnh viêm nhiễm.

    Hệ thống dây chuyền chế biến trà Hoàn Ngọc


    Bà Bùi Kim Nga - chủ doanh nghiệp Trà Hoàn ngọc 7 Nga Tây Ninh - cho biết: Trà Hoàn Ngọc giúp bổ sung dinh dưỡng, cung cấp một số vitamin và khoáng chất có lợi cho cơ thể con người. Đặc biệt, trà Hoàn Ngọc chứa 20% chất tanin có khả năng sát khuẩn mạnh, dùng chữa viêm họng, viêm mũi mãn tính, vitamin C, B, B2 làm tăng sức đề kháng. Dùng trà hoàn ngọc thường xuyên sẽ làm tăng sức đề kháng, hỗ trợ miễn dịch, giúp cơ thể tự điều chỉnh cân bằng.

  11. #8
    Thành Viên Charles's Avatar
    Ngày tham gia
    15-04-2013
    Giới tính
    Nam
    Bài viết
    56,883
    Cảm ơn
    596
    Được cảm ơn: 12,648 lần
    Xác định hoạt tính ức chế bệnh ung thư và HIV từ cây xạ đen

    Thứ năm 06/06/2019 16:55

    Lá cây xạ đen được khử trùng và đánh giá hàm lượng các chất có chứa hoạt chất chống oxy hóa mạnh, ức chế bệnh ung thư và HIV cao.

    Lá cây xạ đen - Ảnh internet

    Nghiên cứu mới được công bố trên tạp chí sinh hóa quốc tế Medicines của MDPI về lá cây xạ đen có tác dụng chống oxy hóa mạnh và ức chế bệnh ung thư. Tác giả là nhóm nghiên cứu người Việt Nam và Indonesia do PGS Trần Đăng Xuân,Trưởng phòng thí nghiệm Sinh lý thực vật và Hóa sinh (Đại học Hiroshima, Nhật Bản) đứng đầu.


    Cây xạ đen tên khoa học là Celastrus hindsii. Các nhà khoa học đã thu thập lá cây xạ đen ở xã Cao Dương, huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình vào 5/2017 để đánh giá hoạt tính chống oxy hóa gồm các chất phenolics (TPC) và flavonoids (TFC).


    Mẫu lá được khử trùng và sấy khô ở nhiệt độ 30 độ C, sau đó phân tách các phân đoạn hoạt tính từ chiết xuất của lá cây bằng phương pháp phân tích sắc khí ký ghép khối phổi (GC-MS) và sắc ký lỏng ghép khối phổ (EIS-MS).


    Các thí nghiệm để đánh giá các hoạt chất có trong lá cây cũng được thực hiện, trong đó đặc biệt quan tâm tới hàm lượng phenolic – chứa nhiều hoạt động dược lý như khả năng chống oxy hóa và chống viêm, khả năng ức chế mạnh bệnh tim mạch, ung thư và tiểu đường. Các hoạt tính sinh học như kháng khuẩn, chống viêm, chống ung thư và ức chế protein kinase cũng được đánh giá.


    Ngoài các hợp chất thuộc nhóm phenolics và flavonoids, trong cây xạ đen còn có một số hợp chất quan trọng như Maytenolione A (C30H46O4) và Celasdine B (C30H50O3) được phân lập từ lá cây xạ đen và được phát hiện có độc tính mạnh đối với các dòng tế bào ung thư cũng như hoạt động chống sao chép của HIV.


    Các phát hiện của nghiên cứu này cho thấy lá cây xạ đen chứa nhiều hợp chất hoạt tính sinh học có thể được khai thác cho mục đích y học và dược phẩm. Loại cây này có đặc tính chống oxy hóa mạnh, cho hàm lượng phenolics và flavonoids cao. Tuy nhiên, cần thêm các nghiên cứu sâu hơn về phân lập và tinh chế các thành phần chính này từ chiết xuất lá cây xạ đen.


    PGS. Trần Đăng Xuân cho rằng, các cây dược liệu như xạ đen hứa hẹn mang nhiều giá trị lớn về y dược cũng như kinh tế cho Việt Nam, tuy nhiên cần nhiều nghiên cứu cơ bản phân tích xác định rõ hàm lượng các chất hóa học cũng như hoạt tính sinh học trên tế bào và lâm sàng.


    Thanh Trà

    Tổng hợp

Thông tin về chủ đề này

Users Browsing this Thread

Có 1 người đang xem chủ đề. (0 thành viên và 1 khách)

Quyền viết bài

  • Bạn Không thể gửi Chủ đề mới
  • Bạn Không thể Gửi trả lời
  • Bạn Không thể Gửi file đính kèm
  • Bạn Không thể Sửa bài viết của mình
  •