Tòa ma túy: Những kết quả tích cực
Thứ năm 07/01/2016 13:52
Hiệu quả của các Tòa mtúy ở Hoa Kỳ đã được kiểm chứng qua rất nhiều nghiên cứu và các số liệu thực tế. Hiệu quả của Tòa ma túy được thể hiện ở việc giảm sử dụng ma túy trong những người nghiện tham gia chương trình và hoàn thành chương trình, giảm tái phạm hình sự, tăng tuân thủ điều trị, giảm chi phí, tiết kiệm cho phí cho hệ thống tư pháp và cải thiện địa vị kinh tế xã hội của người nghiện tham gia chương trình.
Giảm sử dụng ma túy:
Theo số liệu nghiên cứu của Viện Tư pháp quốc gia Hoa Kỳ, tỷ lệ thử nước tiểu cho kết quả dương tính trong nhưng người tham gia Tòa ma túy là 29%, thấp hơn nhiều so với tỷ lệ 46% trong những người nghiện ma túy tham gia các chương trình quản thúc khác tại cộng đồng (NIJ, 2003). Chế độ điều trị nghiêm ngặt cùng với việc thường xuyên thử nước tiểu định kỳ và bất chợt đối với tất cả những người tham gia chương trình, không chỉ những người nghi có tái sử dụng, cùng với chế độ xử phạt nghiêm khắc tương ứng với kết quả xét nghiệm dương tính là yếu tố quan trọng làm giảm tỷ lệ tái sử dụng ma túy trong những người nghiện tham gia chương trình.
 |
Ảnh minh họa
|
Giảm tỷ lệ tái phạm hình sự:
Tỷ lệ tái phạm hình sự thấp trong những người đã hoàn thành chương trình điều trị của Tòa Ma túy là một minh chứng nữa cho hiệu quả của Tòa Ma túy. Theo Bộ Tư pháp Hoa Kỳ, có ít nhất là 45% những người nghiện bị bắt vì tội tàng trữ ma túy tái phạm sau hai hoặc ba năm kể từ khi chấp hành xong các hình phạt khác. Tuy nhiên, với những người đã hoàn thành chương trình Tòa ma túy, tỷ lệ tái phạm hình sự là từ 5% tới 28%, tùy thuộc vào các điều kiện và mức độ hỗ trợ xã hội có được như: tình trạng việc làm, quan hệ gia đình, điều kiện sức khỏe...(DCPO, 1998). Một nghiên cứu trong 17.000 người hoàn thành chương trình Tòa ma túy trên toàn nước Mỹ cho thấy tỷ lệ tái phạm sau hai năm là từ chỉ từ 16,5% tới 27,5%. Tỷ lệ tái phạm trung bình sau một năm là dưới 10% (NIJ, 2003). Trung bình 75% người hoàn thành chương trình Toà ma tuý không tái phạm sau 2 năm. Các phân tích tổng hợp cho thấy các chương trình Toà ma tuý làm giảm tội phạm tới 45% so với các chương trình tư pháp khác (NADCP, 2016).
Tăng tuân thủ điều trị:
Theo Hiệp hội Các chuyên gia về Tòa Ma túy Hoa kỳ, chỉ có khoảng 30% bệnh nhân của các chương trình điều trị nghiện ma túy thông thường theo hết được chương trình điềutrị, khoảng 70% bỏ dở chương trình. Trong khi đó, tỷ lệ tuân thủ điều trị (là tỷ lệ phần trăm giữa tổng những người đang tham gia chương trình và đã hoàn thành chương trình trên tổng số những người tham gia chương trình) trong các Tòa ma túy trên toàn nước Mỹ là từ 65% tới 85%. Tỷ lệ này cao hơn một cách đáng kể so với các chương trình điều trị nghiện ma túy khác, nơi có tới từ 40% tới 80% khách hàng bỏ điều trị trước 90 ngày(Stark, 1992, dẫn chiếu trong Huddleston và cộng sự, 2004) và có tới 80% tới 90% bỏ dở điều trị trước 12 tháng(Satel, 1999, dẫn chiếu trong Huddleston và cộng sự, 2004). Tỷ lệ người nghiện tham gia Toà ma tuý ở lại với chương trình điều trị đủ dài cho việc phục hồi của họ cao hơn 6 lần so tỷ lệ ở những người nghiện tham gia các chương trình khác (NADCP, 2016). Việc giám sát thường xuyên cùng với các chế độ kỷ luật, khen thưởng kịp thời, thích hợp đã giúp người nghiện ở lại hết chương trình.
Tiết kiệm chi phí:
Thông qua việc cung cấp các dịch vụ điều trị và giám sát ngoại trú đối với người nghiện ma túy vi phạm hình sự thay cho xử phạt giam, các Tòa Ma túy đã giảm chi phí đáng kể cho hệ thống tư pháp hình sự. Chi phí trung bình cho việc phạt giam một tội phạm ma túy ở Hoa Kỳ là từ 20.000 tới 50.000 đô la mỗi năm. Trong khi đó, chi phí cho một người tham gia Tòa Ma túy chỉ từ 2.500 tới 4.000 đô la mỗi năm tùy thuộc và mức độ dịch vụ được cung cấp và tùy theo từng tiểu bang. Tính trung bình, cứ 1 đồng đầu tư vào Tòa Ma túy, người đóng thuế trên toàn nước Mỹ của sẽ tiết kiệm 3,36 đô la cho các chi phí tư pháp hình sự. Nếu gộp chung với các khoản tiết kiệm khác như tiết kiệm từ chi phí chăm sóc y tế, tiết kiệm từ giảm tội phạm... thì lợi ích có được là 27 đô la tiết kiệm cho mỗi đô la đầu tư vào Tòa Ma túy. Tính theo mỗi đối tượng, Toà Ma túy tiết kiệm được từ 3.000 đô la tới 13.000 so với việc xử phạt tù. Năm 2007, cứ một đô la từ ngân sách Liên bang Mỹ chi cho Toà ma tuý giúp tiết kiệm được 9 đô la từ ngân sách liên bang cho các hoạt động liên quan (NADCP, 2016).
Tiết kiệm các nguồn lực khác cho hệ thống tư pháp:
Tòa Ma túy đã giúp cho hệ thống tư pháp hình sự Hoa Kỳ đầu tư và phân bổ các nguồn lực hiệu quả hơn. Nhân viên các toà hình sự trước đây phải dành nhiều thời gian cho các vụ tội phạm hình sự ít nghiêm trọng nhưng có liên quan tới sử dụng ma túy giờ đã có thể dành thời gian tập trung cho các vụ án hình sự nghiêm trọng hơn. Hệ thống các trại giam cũng được giảm tải để dành cho các tội phạm hình sự nghiêm trọng (DCCTAP, 1997).
Cải thiện địa vị kinh tế xã hội của người tham gia Tòa Ma túy:
Song song với việc phục hồi từ căn bệnh nghiện ma túy, người tham gia Tòa Ma túy còn thu được nhiều lợi ích về mặt kinh tế xã hội khác. Hầu hết các Tòa Ma túy yêu cầu người nghiện phải tìm được việc làm hoặc tốt nghiệp chương trình học phổ thông mới được cấp giấy chứng nhận hoàn thành chương trình. Vì vậy, nhiều người nghiện khi bắt đầu tham gia chương trình không có việc làm nhưng với sự hỗ trợ của chương trình và nỗ lực của bản thân sau đó đã tìm được việc làm; những người đang có việc làm thì giữ được việc làm. Tính trung bình có 73% người tham gia các Tòa Ma túy trên toàn nước Mỹ đã giữ hoặc tìm được việc làm. Những lợi ích về mặt xã hội khác mà những người nghiện tham gia Tòa Ma túy có được là được học văn hóa (hầu hết các Tòa ma túy yêu cầu người hoàn thành chương trình phải đạt được bằng GED - General Education Development, tương đương bằng tốt nghiệp trung học cơ sở ở Việt Nam), trẻ sơ sinh không bị ảnh hưởng từ việc nghiện ma túy của người mẹ và sự tái hợp của các gia đình người nghiện. tỷ lệ tái hợp của các cặp gia đình người nghiện trước đó bị tan vỡ trong những người tham gia Tòa Ma túy cao hơn 50% so với những người tham gia các chương trình tư pháp hình sự khác (NADCP, 2016).
TS. Nguyễn Thị Vân-Bộ LĐTBXH