Kết quả 1 đến 2 của 2

Chủ đề: Một số cây thuốc mang tên loài khỉ

  1. #1
    Thành viên năng động nhiệt tình.
    Ngày tham gia
    18-07-2009
    Giới tính
    Nam
    Đến từ
    Tp.HCM
    Bài viết
    47,922
    Cảm ơn
    2,578
    Được cảm ơn: 11,969 lần

    Một số cây thuốc mang tên loài khỉ

    Một số cây thuốc mang tên loài khỉ (Kỳ I)

    Thứ Hai 7/3/2016 01:20:00 PM


    SKĐS - Đây là những cây thuốc được chú ý sử dụng. Trong đó, có những cây hiện nay đang “nóng” trên thị trường dược liệu.


    Cây hoàn ngọc - cây con khỉ



    Cây hoàn ngọc còn được gọi với nhiều tên khác như: cây con khỉ, cây xuân hoa, cây nhật nguyệt, cây tu lình, tên khoa học Pseuderanthemum palatiferum (Nees) Radlk., thuộc họ Ô rô - Acanthaceae.


    Hoàn ngọc là sống nhiều năm, thân đứng, cao khoảng 0,5 - 3m, thân non mềm màu xanh lục, thân già hóa gỗ màu nâu, nhiều cành mảnh. Lá mọc đối, phiến lá hình mũi mác, màu xanh lục, mềm.



    Cây hoàn ngọc


    Các bộ phận dùng làm thuốc:



    - Lá cây: dùng tươi, dùng dạng sấy khô hoặc phơi khô trong râm.


    - Toàn cây dùng tươi rửa sạch, giã nát, dùng dạng sấy khô hoặc phơi khô trong râm.


    - Rễ cây: dùng ở cây có từ 7 năm tuổi trở lên.


    Theo các nhà khoa học, cây hoàn ngọc chứa sterol, flavonoid, đường khử, carotenoid, axít hữu cơ, 7 chất đã được phân lập, trong đó 4 chất là phytol, b-sitosterol, hỗn hợp đồng phân epimer của stigmasterol và poriferasterol.


    Lá tươi chứa diệp lục toàn phần 2,65mg/g, protein hòa tan 25,5mg/g, polysaccharid hòa tan 0,80%, và các chất: Ca 875,5mg%, Mg 837,6mg%, K 587,5mg%, Na 162,7mg%, Fe 38,75mg%, Al 37,5mg%, V 3,75mg %, Cu 0,43mg%, Mn 0,34mg%, Ni 0,19mg%.


    Qua nghiên cứu, các nhà khoa học nhận thấy cây hoàn ngọc có các tác dụng kháng khuẩn, kháng nấm; có hoạt tính thủy phân protein (nên trong lâm sàng, đắp lá tươi hoàn ngọc làm tiêu mủ và làm tan sẹo lồi); có tác dụng ức chế monoaminoacydase (MAO) và tác dụng bảo vệ gan. Cây không có độc tính.


    Theo đông y, lá hoàn ngọc có tính mát, vị chát, hơi chua, không độc, tác dụng lợi tiểu, thanh nhiệt, kích thích tiêu hóa, cầm máu. Dùng chữa rối loạn tiêu hóa, đầy bụng, lỵ, viêm loét dạ dày - tá tràng, trĩ nội, ho ra máu.


    Ngày dùng 30 - 40g khô, sắc uống thay nước trong ngày.


    Đắp ngoài chữa chấn thương chảy máu, lở loét, sẹo lồi, mụn lồi.Dùng lá tươi rửa thật sạch, liều lượng tùy theo vết thương, thêm một ít muối, giã nát, đắp vào vết thương sẽ làm tiêu mủ, giảm sưng, vết thương mau liền, chóng lên sẹo.


    Vỏ cây hoặc vỏ rễ có thể ngâm rượu hoặc nấu lấy nước.


    - Chữa viêm loét dạ dày - tá tràng, viêm đại tràng, ho ra máu:


    Dùng lá tươi, ngày dùng 2 - 4 lần, mỗi lần 7 - 9 lá, rửa thật sạch. Dùng trước bữa ăn, khi bụng đói, tốt nhất là vào buổi sáng, nhai thật chậm để lá thuốc kết hợp với nước bọt. Dùng liên tục 5 - 7 ngày.


    - Chữa viêm đường tiết niệu, tiểu ra máu, tiểu buốt, tiểu dục, tiểu gắt:


    Ngày ăn 3 - 5 lần, mỗi lần 5 - 7 lá. Có thể rửa thật sạch, giã nát để uống nước. Dùng liệu trình từ 150 lá đến 200 lá.


    Cây đười ươi



    Cây đười ươi còn gọi là lười ươi, bàng đại hải, đại hải tử, đại đồng quả, An Nam tử, hồ đại phát, Malva nut tree, noix de Malva, graine gonflante, tên khoa học Scaphium lychnophorum (Hance) Kost., (Sterculia lychnophora Hance), thuộc họ Trôm - Sterculiaceae.
    Cây to cao khoảng 25 - 30m, cành có góc, lúc non có lông màu hung, về sau nhẵn.


    Quả nang, với 1 - 5 quả đại cao 10 - 15cm (có khi tới 24cm), mặt ngoài màu đỏ, mặt trong màu bạc, vỏ quả mỏng. Hạt duy nhất, có kích thước như đầu ngón tay, hình bầu dục hay thuôn dài 2,5 - 3,5cm, rộng 1,2 - 2,3cm, đính ở gốc của quả, có màu nâu, da nhăn, thô, phù to ra khi gặp nước.


    Cây đười ươi mọc nhiều ở miền Trung và Nam Việt Nam, từ những tỉnh Quảng Trị, Bình Định, Phú Yên, đến Bình Thuận, Đồng Nai, Bà Rịa-Vũng Tàu, Tây Ninh và tại nhiều nước khác ở Đông Nam Á như: Trung Quốc (Quảng Đông, đảo Hải Nam), Ấn Độ, Malaysia, Thái Lan, Indonesia.


    Bộ phận sử dụnglà hạt khô (Semen Scaphii Lychnophori - bàng đại hải). Người ta hái quả chín nứt, lấy hạt phơi khô làm thuốc.


    Người Pháp gọi là graine gonflante (hạt nở) vì khi ngâm với nước, hạt nở to gấp 8 - 10 lần,
    Trong hạt đười ươi có chứa chất gôm bassorin, là một chất không tan trong nước, nhưng phù ra thành một chất nhày gel, và arabinose, galatose.


    Theo sách Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam của GS.TS. Đỗ Tất Lợi, hạt đười ươi gồm 2 phần: phần nhân chiếm khoảng 35% và phần vỏ 65%. Trong nhân có chất béo (2,98%), tinh bột, chất đắng. Trong vỏ có khoảng 1% chất béo, 59% bassorin, chất nhầy và tanin.


    Theo đông y, bàng đại hải vị ngọt, tính hàn, quy kinh Phế, Đại tràng, tác dụng thanh tuyên phế khí, nhuận tràng, thông tiện, tiêu độc, khứ thử nhiệt.


    Thường dùng chữa các chứng: đàm nhiệt khái thấu, phế nhiệt gây đau họng, tắt tiếng, miệng đắng, cổ họng khô khát, viêm họng mãn tính, táo bón, đau mắt đỏ, tiểu khó, tiểu buốt. Tiêu chảy, kiết lỵ, hen suyễn, sốt


    Liều dùng 3 - 5 hạt, hãm trong 1 lít nước sôi hoặc sắc uống, có thể thêm ít đường.


    Người Việt Nam dùng hạt đười ươi chung với hột é, để làm thức uống giải khát thông dụng.


    Khi dùng hạt đười ươi cần lưu ý: tránh đun sôi hơn 3 hạt đười ươi cho mỗi lần dùng .


    Lạm dụng quá mức có thể gây ra các triệu chứng như: ra nước đờm trắng, buồn nôn, ho, và lưỡi bị rộp.


    - Trị viêm amiđan cấp: dùng 4 - 8 hạt, cho vào bình trà, đổ nước sôi vào, ngâm khoảng nửa giờ, uống hết sau khi ngâm. Cách 4 giờ uống 1 lần, dùng liên tục trong 2 - 3 ngày.


    Trị khỏi 68 ca, tốt 21 ca (Lưu Phúc Bình, Tạp chí Trung y Triết giang 1966, 5:180).


    Cây xương khỉ



    Cây xương khỉ còn gọi là cây mảnh cộng, cây bìm bịp, tên khoa học Clinacanthus nutans (Burm.f.) Lindau, thuộc họ Ô rô - Acanthaceae. Cây nhỏ, mọc trườn. Lá nguyên, có cuống ngắn, phiến hình mác hay thuôn, mặt hơi nhẵn, mép hơi giún, màu xanh thẫm. Lá non có thể dùng nấu canh ăn. Bông rủ xuống ở ngọn; lá bắc hẹp. Hoa màu đỏ hay màu hồng, cao 3 - 5cm. Tràng hoa có hai môi, môi dưới có 3 răng, quả nang dài khoảng 1,5cm, chứa 4 hạt.


    Mùa ra hoa: xuân - hạ.


    Cây có nguồn gốc châu Á nhiệt đới (các nước Đông Dương, từ Thái Lan đến Malaysia), Nam Trung Quốc. Mọc hoang nhiều nơi, ở hàng rào, bờ bụi, và được trồng để làm thuốc hoặc lấy lá hấp bánh, đồ xôi để có mùi thơm đặc trưng như mùi cơm nếp.


    Cây này có tên bìm bịp là vì người ta quan sát thấy, khi bìm bịp con bị gãy chân, thì chim mẹ đem lá cây này về đắp chữa lành xương cho chim con.



    Cây đười ươi


    Bộ phận dùng làm thuốc: toàn cây trên mặt đất (Herba Clinacanthi).



    Phân tích cây xương khỉ có chứa nhiều vitamin, các khoáng chất, tanin, flavon, glycosid, dẫn xuất của cerebrosid và glycerol.


    Kết quả phân tích thành phần dinh dưỡng có trong cây xương khỉ tại Trung tâm III thuộc Tổng cục Tiêu chuẩn đo lường chất lượng cho thấy: hàm lượng chất đạm 3,2g%, chất béo 1,1g%, chất xơ 1,4g%, hàm lượng calcium 147mg/100g.


    Như vậy, thành phần dinh dưỡng trong cây xương khỉ khá cao. Có thể dùng ăn kèm với lẩu cá, lẩu thịt hoặc nấu canh với thịt bằm, canh tôm, canh cua…


    Theo đông y, cây xương khỉ có vị ngọt, tính bình, tác dụng thanh can nhiệt (làm mát gan), lợi đảm (tăng tiết mật), chỉ thống (làm giảm đau, hết đau), điều kinh, tiêu thũng, khứ ứ, và giúp làm liền xương. Thường dùng làm thuốc hạ sốt, chống viêm, điều kinh, giảm đau nhức do phong thấp.
    Ngày dùng 20 - 30g khô hoặc 60 - 80g tươi, sắc uống, dùng riêng hoặc kết hợp với các loại thuốc khác.


    Dùng ngoài, lấy lá và thân tươi rửa sạch, giã nhuyễn, xào nóng lên, đắp bó chữa sưng đau khớp, bong gân, gãy xương kín, cầm máu…


    Ở Hải Nam (Trung Quốc), người ta dùng lá chữa vết thương do dao chém, thiếu máu, hoàng đản, phong thấp.


    Ở Thái Lan, lá tươi dùng chữa bỏng, mụn rộp, Eczema, sâu bọ đốt.


    Lương y ĐINH CÔNG BẢY




    http://suckhoedoisong.vn/mot-so-cay-...i-n112828.html

  2. #2
    Thành viên năng động nhiệt tình.
    Ngày tham gia
    18-07-2009
    Giới tính
    Nam
    Đến từ
    Tp.HCM
    Bài viết
    47,922
    Cảm ơn
    2,578
    Được cảm ơn: 11,969 lần
    Một số cây thuốc mang tên loài khỉ (Kỳ II)

    Thứ Hai 7/3/2016 01:26:36 PM



    SKĐS - Những cây thuốc, vị thuốc được kể ra ở đây được dùng nhiều cả trong lĩnh vực dược liệu lẫn đời sống ẩm thực. với Một số cây, nên có những phương pháp bảo vệ và phát triển chúng.


    (Tiếp theo kỳ trước)


    Cây ngõa khỉ



    Cây ngõa khỉ còn gọi là ngái khỉ, ngái nhẵn, tên khoa học Ficus hirtaVahl. var roxburghii King (F. roxburghii Miq.), thuộc họ Dâu tằm - Moracea.



    Cây nhỏ 1 - 2m, có nhánh chỉ hơi to, có lông cứng. Lá hình xoan ngược, thon hẹp và tròn ở gốc, có đuôi ngắn ở đầu, dài 8 - 15cm, rộng 4 -8cm, mỏng, có lông mềm với lông dạng củ hay hơi nhẵn ở trên, có lông dài hoặc chỉ có ít ở dưới trên các gân, mép có răng cưa, có khi chia 3 thùy sâu, cuống dài 1 - 4cm. Quả sung dạng cầu, đường kính 1cm, không cuống.



    Cây ngõa khỉ


    Ra hoa quả quanh năm, chủ yếu từ tháng 12 đến tháng 2.


    Cây ngõa khỉ là loài phân bố ở Ấn Độ, Indonesia, Malaysia, Trung Quốc và Việt Nam, Lào, Campuchia. Ở Việt Nam, cây mọc ở rừng thứ sinh và ở các trảng ẩm, lầy, có ở Quảng Trị, Thừa Thiên Huế.


    Người ta thu hái toàn cây (Herba Fici Hirtae) để làm thuốc.


    Theo đông y, ngõa khỉ có vị ngọt, hơi đắng, tính ấm, tác dụng khu phong, lợi thấp, hoạt huyết tán ứ. Thường dùng trong các trường hợp đái tháo đường, viêm nhiễm, tiêu chảy, bệnh phong, bệnh sởi.


    Ngày dùng 6 - 8g cành mang lá khô, sắc uống.


    Ở Trung Quốc, cây được dùng trị trẻ em cam tích, phong thấp đau xương, bế kinh, sản hậu ứ huyết, đau bụng, viêm tinh hoàn, đòn ngã tổn thương.


    Theo kinh nghiệm của người dân tộc Pako, ngái nhẵn được dùng để điều trị xơ gan, gan đau nhức, bệnh đái đường, giúp giảm đau đầu, ăn ngon, ngủ ngon.


    Ngoài ra, quả và hạt có tác dụng gây nôn và nhuận tẩy. Nhựa cây chảy từ rễ dùng uống nhuận tràng. Quả cũng dùng ăn được.


    Cây sọ khỉ



    Cây sọ khỉ hay còn gọi là cây xà cừ, tên khoa học Khaya senegalensis A. Juss., thuộc họ Xoan - Meliaceae.


    Cây gỗ cao từ 35 - 40m, thân to, tròn, đường kính cây có thể đạt trên 2m. Vỏ cây lúc non có màu xám nâu, nhẵn, bong vảy tròn như khảm xà cừ. Lá mọc so le, lúc non màu tím, kép lông chim chẵn, có 4 -5 đôi lá chét hình thuẫn, đầu có mũi lồi ngắn, mép nguyên. Hoa xếp thành chùm tròn ở nách lá đầu cành. Hoa nhỏ, vàng, đều, có 4 cánh nhỏ dính nhau, ống nhị hình cầu, dĩa hoa hình gờ tròn, vòi nhụy dài, đầu nhụy hình dĩa. Quả nang nhỏ, hình cầu, vỏ quả hóa gỗ. Hạt dẹt, có cánh mỏng.



    Cây sọ khỉ


    Mùa hoa tháng 5 - 7, quả tháng 8 - 10.


    Vỏ cây nứt đồng tiền khoanh tròn như cái sọ khỉ nên cây có tên là sọ khỉ.


    Gỗ có lõi màu đỏ nhạt, giác màu nâu đỏ, gỗ rắn thớ xoắn, dễ nứt nẻ cong vênh, gỗ được sử dụng đòng tàu thuyền, làm đồ mộc gia dụng, làm ván sàn...


    Cây sọ khỉ có nguồn gốc từ châu Phi, được du nhập vào Việt Nam vào cuối thế kỉ XIX, được gây trồng nhiều nơi để làm cây cảnh quan, cây che bóng mát vỉa hè, trong công viên, trường học...


    Cây sọ khỉ thường được trồng trong các công viên, trên các con đường rộng lớn, vừa tạo cảnh quan, vừa đem lại bóng mát ven đường.


    Theo sách Từ điển cây thuốc Việt Nam (NXB Y Học, Hà Nội, 1996) của TS. Võ Văn Chi, lá cây sọ khỉ được dân gian dùng nấu nước đặc để rửa, lấy bã xát chữa bệnh ghẻ. Cũng dùng lá non giã nhỏ, trộn rượu, nướng, đắp chữa sưng vú.


    Ở châu Phi, người dân dùng hoa xà cừ sắc uống chữa sốt, đau dạ dày.


    Cây củ khỉ



    Cây củ khỉ còn gọi là vương tùng, hồng bì núi, sơn hoàng bì, xì hắc, cút khí,mắc mật, tên khoa học Clausena indica (Dalz.) Oliv., thuộc họ Cam - Rutaceae.


    Cây mọc hoang ở vùng chân núi đá vôi, có độ cao khoảng 1.000m. Một số ít mọc trên sườn núi đá và sườn đồi. Phân bố ở Trung Quốc và Việt Nam (Quảng Ninh, Hải Phòng, Ninh Bình, Thanh Hóa...).


    Người ta thu hái lá, rễ quanh năm. Dùng tươi hay rửa sạch, thái nhỏ, phơi khô, bảo quản để dùng.


    Trong lá tươi có 1,4 - 1,6 % tinh dầu, lá khô có 5% tinh dầu, và quả khô có 6% tinh dầu. Tinh dầu có thành phần chính là isomenthol 51,9%, và menthol 42,2%.


    Theo Đông y, lá củ khỉ có vị đắng, hơi cay, tính mát, tác dụng thanh nhiệt, giải độc, trừ thấp, tiêu thũng. Dùng chữa cảm cúm, nhức đầu, đau bụng, tê thấp.


    Ngày dùng 8 - 16g, dạng thuốc sắc uống, hoặc bào chế tinh dầu dùng trong xoa bóp. Gần đây, người dân một số nơi đã cất tinh dầu củ khỉ, phối hợp với một số tinh dầu khác như bạc hà, khuynh diệp, để làm thuốc xoa bóp, thuốc uống, chữa cảm mạo, đau nhức.


    Dùng ngoài, lấy lá rửa sạch, giã nát, đắp chữa sai khớp, gãy xương.


    Rễ dùng chữa tê thấp, đau nhức tay chân.


    Quả và lá non còn được dùng làm gia vị. Quả có thể ăn tươi, rửa sạch quả cho vào lọ và ngâm với muối, ớt, hoặc dùng để nấu, kho trong một số món ăn.


    Lá mắc mật có tinh dầu thơm nên được người dân ở Cao Bằng, Lạng Sơn dùng trong các món thịt lợn quay, thịt lợn kho, vịt quay, khau nhục…, có mùi thơm ngon đặc trưng, tác dụng lợi mật, kích thích tiêu hóa.


    Theo Sách đỏ Việt Nam, cây củ khỉ ở mức độ bị đe dọa: bậc T. Do bị khai thác nhiều để cất tinh dầu nên số lượng cá thể giảm sút nhanh và bị cạn kiệt.


    Đề nghị biện pháp bảo vệ: khoanh vùng bảo vệ tự nhiên và đặt vườn đề trồng trọt để có nguyên liệu khai thác hàng năm.


    Cây lông khỉ



    Cây lông khỉ còn gọi là cây lông cu li, cù liền, cù lần, cây cẩu tích, kim mao cẩu tích, co cút pá (Thái), cút báng (Tày), nhải cù vằng (Dao), tên khoa học Cibotium barometz (L.) J. Sm, thuộc họ Cẩu tích - Dicksomiaceae.



    Lông khỉ là cây mọc hoang, phân bố rộng rãi ở miền núi, nơi đất ẩm, gần bờ khe suối ở ven rừng hoặc các trảng cây bụi to, từ Lào Cai, Hà Giang đến Quảng Nam, Lâm Đồng.


    Người ta thu hoạch thân, rễ lông khỉ quanh năm nhưng tốt nhất vào mùa thu-đông, để làm thuốc. Đem về cắt bỏ các rễ con và cuống lá, cạo sạch lông vàng (cất riêng để làm thuốc), sau đó rửa sạch, thái phiến, phơi hoặc sấy khô rồi bảo quản nơi khô ráo để sử dụng. Khi dùng, thường tẩm với rượu, ủ qua đêm, sao vàng thơm. Tên dược liệu là cẩu tích (Rhizoma Cibotii).



    Phân tích trong thân rễ cẩu tích có chứa tinh bột (30%) và chất aspidinol. Lông vàng ở thân rễ có chứa tanin và sắc tố.
    Theo Đông y, cẩu tích có vị đắng ngọt, tính ôn, vào 2 kinh can, thận. Tác dụng bổ can, thận, làm mạnh gân xương, trừ phong thấp, chống viêm. Thường dùng chữa đau lưng mỏi gối do thận hư, phong hàn tê đau, nhức mỏi tay chân, khó cử động, đau thần kinh toạ, di tinh, bạch đới, đi tiểu són không cầm được (ở người cao tuổi), bí tiểu, tiểu rắt.


    Ngày dùng 10 - 20g dạng thuốc sắc hoặc ngâm rượu uống.


    Những người có tình trạng thận âm hư sinh nội nhiệt, đi tiểu vàng sẻn, táo bón, thì không nên dùng cẩu tích.


    Lông vàng (kim mao) quanh thân rễ cẩu tích có tác dụng cầm máu có tính cơ học bằng cách hút huyết thanh của máu và giúp cho sự tạo máu cục, làm cho máu chóng đông.


    Đông y sử dụng lông vàng cẩu tích để cầm máu bằng cách đem lông (đã rửa rượu, đem sấy sạch) đắp lên các vết thương chảy máu.

    Lương y ĐINH CÔNG BẢY




    http://suckhoedoisong.vn/mot-so-cay-...i-n112958.html

Thông tin về chủ đề này

Users Browsing this Thread

Có 1 người đang xem chủ đề. (0 thành viên và 1 khách)

Quyền viết bài

  • Bạn Không thể gửi Chủ đề mới
  • Bạn Không thể Gửi trả lời
  • Bạn Không thể Gửi file đính kèm
  • Bạn Không thể Sửa bài viết của mình
  •