Thứ bảy, 17/09/2016 08:56
Rau càng cua thua gì biệt dược?

Theo đông y, rau càng cua vị đắng, tính bình, có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, khu phong, hoạt huyết, tan máu ứ





Rau càng cua được biết xuất phát có nguồn gốc từ Nam Mỹ, nay được trồng và phát tán rộng rãi khắp nơi trở thành cây mọc hoang.


Tên khoa học của rau Càng Cua: Peperomia pellucida, thuộc họ Hồ tiêu (Piperaceae). Ngoài tên gọi Càng Cua, rau này còn có các tên gọi khác như Rau Tiêu hay còn có tên là Đơn Kim, Đơn Buốt, Cúc Áo, Quỷ Châm Thảo, Thích Châm Thảo, Tiểu Quỷ Châm, Cương Hoa Thảo...


Rau càng cuasống quanh năm ở nơi ẩm thấp, khi còn nhỏ rau mọc thẳng đứng, sau đó bò lan ra mặt đất, thân chia ra thành nhiều nhánh nhỏ, thân cao khoảng 5-40cm, có màu xanh nhạt, toàn thân nhớt, nhẵn; phần nhánh cao chừng 20-40cm; lá mọc so le, có cuống, phiến dạng màng, trong suốt, hình tam giác - trái xoan, hình tim ở gốc,hơi tù và nhọn ở chóp, dài 15-20mm, rộng gần bằng đài; hoa hợp thành bông dạng sợi có cuống ở ngọn, dài gấp 2-3 lần lá; quả mọng hình cầu, đường kính 0,5mm, có mũi nhọn cứng ngắn ở đỉnh.





Trong 100g rau càng cua chứa 92% nước, 5,2mg vitamin C, 34mg photpho, 277mg kali, 224mg canxi, 62mg magiê, sắt 3,2mg, carotenoid 4.166 UI, cung cấp cho cơ thể 24 calori. Hàm lượng dinh dưỡng trongrau càng cuacao hơn cả cà rốt về chất Beta-caroten (tiền vitamin A), cao hơn rau muống về lượng can-xi, photpho... Ngoài ra, rau càng cua còn chứa nhiều chất dinh dưỡng như: proline, protein, vitamin B, C, PP... có lợi cho sức khỏe.


Chất vitamin C có trong rau càng cua, carotenoid tăng khả năng miễn dịch, ngừa bệnh xơ vữa động mạch, tăng cường sức mạnh cơ bắp, mau lành vết thương, giải nhiệt độc cơ thể. Chất photpho, canxi giúp trẻ em phát triển xương, ngăn ngừa còi xương và chữa chứng loãng xương người lớn.


Không chỉ là thứrau ănngon miệng,rau càng cuacòn được dùng làm vị thuốc. Theo đông y, rau càng cua vị đắng, tính bình, có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, khu phong, hoạt huyết, tan máu ứ; thường dùng để chữa các bệnh nhiễm trùng đường hô hấp,viêm họng, viêm ruột thừa, viêm gan truyền nhiễm, viêm dạ dày - ruột, tiêu hóa kém, đau nhức xương khớp, sốt rét. Ngoài ra nó còn được dùng ngoài chữarắn cắn, nhọt lở, chấn thương sưng đau.


Rau càng cua tuy cung cấp nhiều chất nhưng lại ít năng lượng, thích hợp cho người giảm béo, còn được dùng làm vị thuốc. Trong rau chứa nhiều chất sắt, giúp bổ sung cho ngườithiếu máudo thiếu sắt. Các chất kali, magiê trong rau tốt chotim mạchvàhuyết ápcũng như góp phần trong việc chữa bệnh đái tháo đường, táo bón, cao huyết áp...




Người ta có thể nghiền lá ra dùng đắp trị sốt rét, đau đầu, dịch nhầy từ lá dùng uống trịđau bụng. Ngoài ra, toàn cây rau này được dùng làm thuốc trị đau nhức khớp, đòn ngã và được vò nát đắp lên da trị phỏng do lửa hoặc nước sôi.


Do có vị hơi chua chua và mọng nước, rau càng cua có tác dụng giải khát tuyệt vời; đồng thời có tác dụng chữa trị bệnh ngoài da rất tốt, nhất là bệnh ghẻ lở, giã nát, vắt lấy nước, bổ sung chút muối và chấm vào vết thương là da sẽ mau lành, liền miệng.


- Viêm họng: rau càng cua 50 - 100g, rửa sạch nhai ngậm, hoặc xay nước uống hàng ngày. Dùng liền 3-5 ngày.


- Tiểu đường: Rau càng cua 100g rửa sạch bóp giấm (có thể dùng chanh), ếch 1 con (100g), lột da, làm sạch bỏ đầu, lấy thịt tẩm bột, rán chín vàng. Tất cả trộn đều, ăn tuần 2-3 lần.


- Thiếu máu: Rau càng cua 100g rửa sạch bóp giấm, thịt bò 100g, cho gia vị vừa đủ xào chín tới trộn đều ăn, nóng với cơm. Một tuần ăn 3 lần.


- Lợi tiểu: Rau càng cua 150-200g, rửa sạch, cho 300ml nước đun sôi , chia 2 lần uống trong ngày. Uống liền 5 ngày.


- Chữa đau lưng cơ co rút (nhiệt độc nhập kinh thận): Rau càng cua sắc uống mỗi ngày 50 - 100g.
Theo Thanh Long - Nông nghiệp