Trang 2 của 3 Đầu tiênĐầu tiên 123 CuốiCuối
Kết quả 21 đến 40 của 47

Chủ đề: Khám phá tìm hiểu : Giáo dục giới tính

  1. #21
    Admin diendanhiv.vn
    ( Sanh năm 1971 ) 17 năm trong chuyên môn tư vấn HIV miễn phí
    Tuanmecsedec's Avatar
    Ngày tham gia
    29-08-2007
    Giới tính
    Nam
    Đến từ
    Giấy chứng nhận tham vấn số : 041/UB AIDS - TV do ủy ban phòng chống HIV/AIDS TPHCM.
    Bài viết
    103,925
    Cảm ơn
    1,921
    Được cảm ơn: 21,170 lần
    Bài 2-Cực khoái và một số vấn đề liên quan

    Cực khoái là gì? Rất khó có thể tìm ra một định nghĩa chung cho tất cả mọi người. Tuy nhiên, nhà liệu pháp tâm lý tình dục Paula Hall đã giúp tổng hợp những yếu tố tình cảm và thể chất diễn ra trong quá trình đạt tới đỉnh điểm hưng phấn của cả hai người.



    Thế nào là cực khoái?


    Năm 1953, một nhà liệu pháp nổi tiếng đã định nghĩa cực khoái là sự giải phóng bùng nổ mọi căng thẳng của cơ bắp và thần kinh. Còn nhiều định nghĩa khác, nhưng từ "căng thẳng" xuất hiện trong hầu hết những định nghĩa đó. Điều này có nghĩa là khi quan hệ tình dục, bạn chủ ý làm căng hết mình lên để có thể cảm nhận được sự thoải mái khi trở về tình trạng ban đầu.
    Điều gì xảy ra trong cơ thể?


    • Tim bạn đập nhanh hơn, hơi thở mạnh mẽ hơn để tiếp sức cho những bắp thịt căng lên.

    • Các hóc môn như endorphin và oxytocin luân chuyển trong não và cơ thể, làm bạn hưng phấn khắp nơi.
    • Máu được bơm về cơ quan sinh dục để tạo nên sức căng mà cuối cùng tạo ra một phản xạ ở âm hộ (sự co giật các cơ ở cơ quan sinh dục).
    • Phản xạ này sẽ khiến cơ xương chậu của bạn co thắt 5-15 lần cứ sau 0,8 giây. Đây chính là cơn cực khoái.
    • Một mạch thần kinh lạc lối chạy qua xương hông mới được phát hiện, lý giải vì sao một số người liệt 2 chân vẫn cảm nhận được cực khoái.


    1. Cực khóai (orgasm, climax) là một vấn đề rất nhiều bất đồng quan điểm và bàn cãi (controversial)

    (
    http://www.nationmaster.com/encyclopedia/Orgasm
    ). Ngay cả các chuyên gia trong lĩnh vực này cũng cãi nhau chí tử. Ví dụ: vấn đề đạt được orgasm từ clitoris (âm vật) và vaginal (âm đạo) cũng có nhiều khác biệt. Rất nhiều người ủng hộ quan điểm cho rằng orgasm chỉ xuất phát từ âm vật mà không hề có từ âm đạo, do đó, chuyện đạt được orgasm khi “một mình” trong 2-3'' là chuyện bình thường, còn chuyện “bơm xe đạp hùng hục” nhưng vẫn không có orgasm cũng là chuyện hiểu được. Điều này cũng giải thích việc các cặp có quan hệ bên ngoài (đánh trận giả) trong 1 thời gian dài trước khi cưới không thể đạt được orgasm sau khi kết hôn (đánh trận thật) vì đã quen với cảm giác orgasm từ clitoris. Một số cặp may mắn hơn nếu người nữ có thể chuyển dần trung tâm khoái cảm từ clitoris vào vaginal ( 1/3 ngoài của âm đạo). Đây là 1 quá trình lâu dài và có cơ chế hình thành chưa thật sự được biết rõ (Sigmund

    Freud: http://www.cwluherstory....Archive/vaginalmyth.html ).



    2. Orgasm có được từ 2 nguồn khác nhau, mỗi anh giữ một vai trò: emotional factor và biological factor và chúng phải phối hợp đồng bộ, nhịp nhàng.

    - Đầu tiên là vai trò của cảm xúc (emotional factor), trong đó được phân thành cảm xúc tinh thần (psychological factor) và cảm xúc cơ thể (sensory factors - vai trò của giác quan: xúc giác, khứu giác, thị giác, thính giác).

    - Tiếp theo là vai trò của các biến đổi sinh học (biological factors) trong cơ thể (mạch máu giãn nở, biến đổi hình dạng và kích thước của các cơ quan sinh dục …).

    - Nếu đã từng có orgasm ít nhất 1 lần thì chứng tỏ các biến đổi sinh học họat động bình thường, đáp ứng được với kích thích. Nếu có bất thường thì chỉ có khả năng là đáp ứng chậm hơn mọi người mà thôi, nghĩa là cần 1 quá trình kích thích dài hơi (prolonged stimulation).
    Cũng cần nhấn mạnh là các yếu tố trên thay đổi tùy theo giới tính, ngay cả trong cùng một giới cũng thay đổi theo từng cá nhân.

    - Với nam giới, các yếu tố cảm giác giữ vai trò quan trọng hơn, và quá trình đáp ứng sinh học họat hóa nhanh hơn, do đó, có thể giải thích được nam giới dễ dàng đạt được orgasm hơn nữ giới, kể cả trong trường hợp không có yếu tố tinh thần (không yêu, quan hệ gái mại dâm, 19stand…).

    - Người ta nghiêng về lý thuyết: nếu muốn có orgasm thì các quá trình phải được đẩy đến cực điểm, nghĩa là, chỉ cần 1 bất tiện nhỏ trong các factor thì đều có thể đưa đến thất bại trong việc có orgasm.
    Ví dụ: một mùi lạ, một cử chỉ cẩu thả, một vết sẹo lớn, một vết chàm kích thước lớn, ngôn ngữ bất cẩn không phù hợp văn hóa của đối tác… đều có thể làm cho quá trình orgasm tiêu biến đi nhanh chóng.

    - Cũng cần có 1 yếu tố kích họat (trigger) trong suốt “quá trình tìm kiếm orgasm” thì mới có thể đạt được orgasm, nghĩa là, phải có một sự thay đổi đáng kể trong cảm xúc (có thể là “lời thì thầm khiếm nhã”, có thể là “nhanh hơn, cao hơn và hơn thế nữa”, có thể là một “động tác bất ngờ”) mới giúp bùng nổ được.

    - Cũng có người phản bác cho rằng, với động tác thủ dâm (“một mình”, không có đối tác), không có các yếu tố khác hỗ trợ (tinh thần, xúc giác, thị giác, thính giác, khứu giác ..) nhưng người thực hiện vẫn có thể đạt được orgasm như thường. Thực ra, điều này là do hiểu ngược. Trong họat động xã hội hàng ngày, người thủ dâm đã đạt được đỉnh điểm về các yếu tố trên nên có nhu cầu giải tỏa sinh lý. Lúc này chỉ cần 1 yếu tố kích họat (trigger, động tác thủ dâm) là có thể đạt được orgasm dễ dàng. Và, ngay trong động tác này, thời gian trung bình của nam để đạt được orgasm cũng ngắn hơn của thời gian trung bình của nữ.

    - Nói thêm một chút về yếu tố tinh thần. Người ta nhận thấy rằng yếu tố này đóng vai trò quan trọng ở nữ giới hơn nam giới. Tính cách, thói quen sống, mối liên hệ với đối tác (partner), họat động xã hội, mong muốn trong cuộc sống, kể cả kinh nghiệm riêng về tình dục của bản thân … đều có ảnh hưởng đến việc đạt orgasm ở phái nữ.

    - Ngoài ra, người ta còn nhận thấy cường độ (intensity) đạt được orgasm còn phụ thuộc vào một số yếu tố như: khoảng cách thời gian của lần đạt orgasm cuối cùng, tình trạng thể chất lúc sinh hoạt, di truyền, …

    - Người ta cũng ghi nhận, một số cá nhân nam cũng như nữ có thể đạt được nhiều cực khoái liên tiếp. Ở nam, đòi hỏi sự rèn luyện, còn ở nữ thì tố chất cơ thể cho phép đạt được orgasm liên tiếp không cần cố gắng. Điều này ngược lại với việc đạt được orgam trong sinh hoạt bình thường: ở nam gần như ít khi có vấn đề trong việc đạt được khóai cảm, còn ở nữ thì phải mất một quá trình lâu dài (đầu tiên là việc đạt được orgasm từ clitoris từ lúc dậy thì cho đến việc chuyển đổi trung tâm đạt orgasm từ clitoris vào âm đạo).


    Điểm
    G (Gräfenberg spot ; G-spot)


    Do bác sĩ Ernst Gräfenberg (1881-1957) đề cập và mô tả năm 1944. Điểm G được xem như tương đương với âm vật về mặt nhận tín hiệu kích thích tình dục. Điểm G được mô tả như một vùng có kích thước nhỏ bằng hạt đậu, nằm ở thành trước tử cung, phía sau xương mu, chỉ quan sát được khi người phụ nữ bị kích thích. Tuy nhiên, không phải ai cũng đồng tình với quan điểm này. Một số người cho rằng đó chỉ là một cùng tương đương với tuyến tiền liệt ở nam, hoặc thậm chí cho rằng chỉ là một vùng nằm cạnh niệu đạo nên có cảm giác. Do đó, không phải tất cả phụ nữ đều có điểm G và cũng không phải dễ tìm trên thực tế.


    GiaoDucGioiTinhOnline

    Lần sửa cuối bởi Tuanmecsedec, ngày 03-08-2013 lúc 10:50.

  2. #22
    Admin diendanhiv.vn
    ( Sanh năm 1971 ) 17 năm trong chuyên môn tư vấn HIV miễn phí
    Tuanmecsedec's Avatar
    Ngày tham gia
    29-08-2007
    Giới tính
    Nam
    Đến từ
    Giấy chứng nhận tham vấn số : 041/UB AIDS - TV do ủy ban phòng chống HIV/AIDS TPHCM.
    Bài viết
    103,925
    Cảm ơn
    1,921
    Được cảm ơn: 21,170 lần
    Bài 4- Thủ dâm và nhìn nhận đúng đắn về thủ dâm

    Thủ dâm là gì?


    Thủ dâm có nghĩa là tạo ra cảm giác khoái cảm bằng cách kích thích bộ phận sinh dục mà không cần giao hợp. Đây là dạng hành vi tình dục mà đa số chúng ta biết đến đầu tiên và hoàn toàn diễn ra theo bản năng.



    Thủ dâm là một hoạt động tình dục bình thường chứ không phải là tội lỗi, xấu xa như nhiều người thường nghĩ. Có rất nhiều người thực hiện thủ dâm nhưng chẳng ai nói với ai, do vậy họ thường nghĩ rằng đó là việc làm xấu xa.Động lực của thủ dâm là gì?Đó chính là nhu cầu thoả mãn tâm sinh lý tình dục. Thủ dâm là hành vi tình dục đầu tiên của mỗi người, thường xuất hiện ở độ tuổi dậy thì. Khi tâm sinh lý sinh dục đã phát triển, nhu cầu tình dục được hình thành và đòi hỏi được thoả mãn, khi đó thủ dâm là hành vi tình dục tự nhiên nhất và dễ thực hiện nhất, cho phép khám phá bản thân và đóng vai trò thiết yếu trong việc thay thế hoặc bổ sung cho những quan hệ tình dục ngay cả khi đã trưởng thành. Thủ dâm được hình thành ở cả nam giới và nữ giới.Với nam giới, thủ dâm giúp khám phá khả năng tình dục của mình trước khi khám phá những người khác. Không những thế, nó còn đóng vai trò thay thế những cuộc ân ái khi không có bạn tình. Ở lứa tuổi thiếu niên, thủ dâm là hành động chứng tỏ và khẳng định giới tính.Nữ giới cũng có xu hướng thủ dâm như nam giới, một số phụ nữ có ham muốn tình dục rất cao, họ có thể đạt cực khoái đơn giản bằng cách cọ xát núm vú nhưng đây chỉ là số ít. Những phụ nữ khác có thể đạt cực khoái bằng cách ép chặt đùi với nhau, kích thích âm vật.Các nhà khoa học nhìn nhận thủ dâm như thế nào?

    Đối với giới y khoa và các chuyên gia tình dục học, cho đến những năm 60 của thế kỷ XX, thường khuyên người ta tránh thủ dâm. Họ cho rằng đó là việc chưa chín chắn hay đáng chê trách và nếu ai đó gắn bó với chuyện này thì người đó có thể không học được các đáp ứng của tuổi trưởng thành.

    Ngày nay các chuyên gia có các quan điểm hoàn toàn khác về thủ dâm và là quan điểm tích cực hơn. Một trong các lý do của sự thay đổi này là do sự thay đổi lớn trong lối sống. Thủ dâm được xem xét trong bối cảnh hiện đại, được xem như là một hành động nhẹ nhàng, đáp ứng được nhu cầu tình dục của cá nhân, chấp nhận được, bình thường, và an toàn hơn việc ra ngoài có quan hệ mà không biết rõ về các mối quan hệ tình dục của bạn tình và không dùng bao cao su hoặc không dùng đúng cách.

    Thủ dâm sẽ không thật sự an toàn nếu người thủ dâm có những hành động kỳ quặc để thoả mãn ham muốn của mình, không giữ vệ sinh, thủ dâm với đồ vật cứng và làm điều đó một cách quá thô bạo như bẻ dương vật...

    Thủ dâm có lợi hay có hại?

    Dù là một biện pháp tình dục an toàn, vẫn còn rất nhiều người nghi ngại về các ảnh hưởng của thủ dâm lên đạo đức và sức khoẻ. Các vấn đề mọi người thường băn khoăn là: Thủ dâm có phải là một hành vi đáng xấu hổ không, thủ dâm có ảnh hưởng đến khả năng quan hệ tình dục sau này không, thủ dâm có ảnh hưởng đến khả năng có con sau này không, thủ dâm bao nhiêu lần thì đủ?



    Trước hết phải nói rằng thủ dâm là một hành động sinh lí hết sức bình thường. Nếu bạn thủ dâm, bạn hãy tin rằng bạn không phải là người duy nhất. Hầu hết ai cũng đã từng thủ dâm trong cuộc đời ở một mức độ nào đó. Không chỉ các bạn nam thủ dâm mà các bạn nữ cũng thực hiện việc này.

    Bình thường, thủ dâm sẽ không ảnh hưởng gì đến khả năng quan hệ tình dục cũng như khả năng có con sau này vì việc sản xuất trứng và tinh trùng là một quá trình liên tục trong đời sống con người. Thủ dâm còn có một số tác dụng tích cực như:

    Giải toả tâm lí: khi bạn có ham muốn tình dục nhưng bạn thấy mình chưa thực sự sẵn sàng cho chuyện ấy hay bạn chưa có bạn tình hay bạn tình cũng chưa sẵn sàng cho chuyện ấy thì thủ dâm là giải pháp tốt nhất cho bạn. Bạn có thể thực hiện thủ dâm một mình hoặc cùng bạn tình thủ dâm cho nhau. Trong trường hợp các bạn thủ dâm cho nhau, cần tỉnh táo để tránh trở thành giao hợp thực sự. Cách tốt hơn để tránh nẩy sinh các ham muốn tình dục là bạn hãy tránh các cơ hội mà hai người có thể ở riêng với nhau. Bạn cũng cần tránh tiếp xúc với các yếu tố có thể làm nảy sinh ham muốn tình dục như tạp chí và phim ảnh không lành mạnh.

    Thử nghiệm cảm giác: hầu hết mọi người đều rất lo lắng trước khi thực sự có lần quan hệ tình dục đầu tiên. Thủ dâm là một biện pháp tốt để các bạn có thể thử nghiệm cảm giác của mình về chuyện ấy mà không làm hại cho ai.

    Kiểm soát tình dục: bạn có thể kiểm soát từng giai đoạn hưng phấn tình dục của mình để đảm bảo hoạt động tình dục sẽ diễn ra suôn sẻ. Bạn sẽ hiểu về cơ thể của mình hơn. Bạn biết làm như thế nào thì bạn sẽ thích, như thế nào thì bạn không thích. Sau này khi đã kết hôn hoặc khi các bạn quyết định có quan hệ tình dục, điều này sẽ giúp cả hai người cùng đạt được khoái cảm. Nếu bạn gặp khó khăn trong việc xuất tinh như xuất tinh sớm hay xuất tinh muộn, thủ dâm được thực hiện như một bài tập giúp bạn kiểm soát việc xuất tinh của mình tốt hơn. Bạn thậm chí còn có thể kiểm soát để "hắn" không "ngóc lên" vào thời điểm không phù hợp.

    Tránh mang thai và mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục: đây là một tác dụng to lớn của thủ dâm đặc biệt trong bối cảnh hiện nay khi mà HIV/AIDS đã phát triển thành đại dịch trên toàn thế giới. Tức là thủ dâm rất an toàn trong phòng ngừa các bệnh lây truyền qua đường tình dục cũng như có thai ngoài ý muốn mà vẫn đạt được khoái cảm.


    Thủ dâm cũng giống như các hoạt động tình dục khác, ở mức độ vừa phải đáp ứng nhu cầu tình dục của cơ thể thì nó có tác dụng giải toả, giúp cơ thể không bị áp lực, sảng khoái nhưng nếu rơi vào tình trạng nghiện tình dục (trong trường hợp này là nghiện thủ dâm luôn nghĩ hoặc phải làm điều đó không tập trung tinh thần, sức khoẻ cho các hoạt động khác được) thì sẽ có hại cho cơ thể vì luôn tạo nên sự mệt mỏi của cơ thể, không suy nghĩ và làm việc bình thường được.

    Khi đó cần có sự giúp đỡ của các bác sĩ chuyên khoa tâm lý để giúp làm giảm ham muốn, điều chỉnh hành vi tình dục.

    Một số điều cần lưu ý về thủ dâm:

    Thủ dâm ở nơi riêng tư kín đáo, tránh làm ảnh hưởng đến người khác. Thủ dâm ở nơi công cộng sẽ bị coi là một hành vi quấy rối tình dục.

    Vệ sinh sạch sẽ tay và bộ phận sinh dục trước và sau khi thủ dâm để tránh viêm nhiễm bộ phận sinh dục.

    Nếu là thủ dâm cho nhau, chú ý nếu tay một người có dính tinh dịch hoặc chất tiết ra trước khi xuất tinh thì phải rửa tay ngay hoặc không để tay này chạm vào bộ phận sinh dục nữ. Bởi khi đó vẫn có thể có thai ngoài ý muốn.

    Khi thủ dâm với những người nhiễm các bệnh lây truyền qua đường tình dục hay HIV/AIDS, tránh chạm tay vào các vết loét hay các vết thương chưa lành.


    Nhìn nhận đúng về thủ dâm


    Đã từng có thời kỳ, thế hệ này nối tiếp thế hệ khác, như có một màn sương bí ẩn bao trùm, sự thật về thủ dâm không hề được biết đến. Nhiều người đã nghĩ rằng đó là một hành động đầy tội lỗi, xấu xa, chỉ có trẻ con mới lớn, những người vô công rồi nghề, bệnh hoạn... mới làm. Sự thực là như thế nào?


    Với sự phát triển của thông tin và công tác giáo dục sức khoẻ sinh sản được xã hội hoá như hiện nay, nhiều người đã có nhận thức đúng đắn hơn về vấn đề này, và không lảng tránh nói về nó như trước nữa. Chiếm một tỷ lệ lớn trong dân số, lại là đối tượng có hiện tượng thủ dâm nhiều nhất, vậy các bạn trẻ ngày nay nghĩ sao về thủ dâm?


    Vẫn còn những quan niệm sai lầm


    Như trên vừa nói, với sự phát triển của hệ thống truyền thông đại chúng, phát triển các loại hình giáo dục, việc cập nhật thông tin, kiến thức trở nên hết sức nhanh chóng, thuận tiện. Trong xu hướng chung đó, hiểu biết của nhiều người về thủ dâm cũng tăng dần. Tuy nhiên, bên cạnh những người đã có hiểu biết đầy đủ, bên cạnh những quan niệm đúng, vẫn còn những cái nhìn sai lầm.


    Sai lầm của nhiều bạn trẻ đầu tiên cần phải nói đến là họ nghĩ rằng “không có nhiều người thủ dâm”. Đó chỉ là những người không có việc gì để làm, những người còn trẻ tuổi, chưa có gia đình, những người bệnh hoạn...


    Sai lầm thứ hai là nhiều bạn nghĩ rằng chỉ con trai mới thủ dâm, bởi vì con trai “có thứ” đế có thể thủ dâm, còn con gái thì “không có gì” cả. Hơn nữa, con trai thường hay nghịch ngợm và hư hỏng hơn.

    Thứ ba, thủ dâm nhiều sẽ dẫn đến suy giảm sức khoẻ, bệnh tật gây ảnh hưởng đến học tập, công tác, thậm chí có thể bị liệt dương, vô sinh, ...
    Thứ tư, thủ dâm là một hành động tội lỗi, đáng xấu hổ và cần phải che giấu. Vì thế, mỗi lần thủ dâm đều phải làm một cách giấu giếm, vội vàng để tránh người khác nhìn thấy.
    Thứ năm, nếu đã sa vào thủ dâm thì không bao giờ dứt ra được. Nó sẽ giống như một thứ thuốc phiện cuốn người ta vào vòng xoáy tội lỗi...

    Vậy đâu là sự thật?


    Chưa có một nghiên cứu chính thức nào đối với hiện tượng này, nhưng theo các nhà nghiên cứu về tình dục, y và sinh học, hầu hết đàn ông đều đã từng thủ dâm, còn ở phụ nữ, tỷ lệ này có thể thấp hơn một chút. Một số người đưa ra cả con số ước đoán cụ thể: 70% nhân loại đã từng thủ dâm, lâu hay mau, ít hoặc nhiều… trong một giai đoạn nào đó của cuộc đời; 20% cũng làm như vậy, nhưng không biết (hoặc không nghĩ) hành động đó gọi là thủ dâm; 10% còn lại là những người… nói dối. Con số này thay đổi tùy theo tình trạng xã hội, giáo dục và gia đình. Tuy đây chỉ là con số ước đoán và có thể nó sẽ khác ước đoán của những người khác, nhưng điều đó đã cho thấy một thực tế rằng, rất nhiều người đã từng thủ dâm ít nhất một lần trong đời.

    Thủ dâm được hiểu là hình thức tình dục tự mình, nghĩa là tự mình kích thích lên các điểm nhạy cảm trên cơ thể để đạt khoái cảm. Đây là nhu cầu sinh lý rất tự nhiên của con người, giống như đói cần phải ăn, khát cần phải uống. Những người trẻ tuổi muốn khám phá cảm giác và giải toả nhu cầu tình dục, những người phải xa bạn tình một thời gian muốn tìm lại cảm giác quen thuộc..., thậm chí là đứa trẻ muốn sờ nghịch bộ phận sinh dục, hậu môn để tìm cảm giác êm ái, ấm áp từ bầu vú mẹ ngày nào... đều đã, đang và có thể sẽ thủ dâm. Đó không phải là một cái gì xấu xa, đáng lên án và cần phải loại bỏ. Đó là một điều hết sức bình thường.

    Hiện tại, chưa có ai chứng minh được tác hại của thủ dâm trên bất cứ phương diện gì, cả tinh thần lẫn thể xác. Tuy nhiên, nếu thực hiện việc đó quá nhiều, ảnh hưởng đến các hoạt động khác giống như chứng “nghiện tình dục” thì không nên. Bởi cũng giống như bất cứ một hoạt động nào khác của con người, năng lượng sẽ bị tiêu hao trong quá trình chúng ta làm việc, vận động. Vì thế, một số người cảm thấy mệt mỏi sau khi thủ dâm cũng là điều dễ hiểu. Hơn nữa về mặt tâm lý, lạm dụng tình dục, “nghiện tình dục” có thể là một dạng bệnh lý. Họ có biểu hiện yếu kém rõ rệt về tinh thần, không kiểm soát được nhu cầu và hưng phấn của bản thân. Họ cũng thường mang mặc cảm tội lỗi (chẳng hạn cho đó là “căn bệnh quái ác không bỏ được”) và chính sự dằn vặt khổ sở này mới gây tác hại. Nói một cách khác, thủ dâm không làm hao mòn thân xác và suy nhược thần kinh, mà chỉ có những người yếu kém về mặt tinh thần, bệnh hoạn, thiếu tự chủ, thiếu sự kiềm chế, thiếu mục đích của cuộc sống và thiếu giải trí đã lạm dụng thủ dâm như một phương tiện thường xuyên nhằm để trấn an những bức xúc hoặc thỏa mãn những đòi hỏi thân xác chưa đến độ chín muồi.

    Thanh niên mới lớn thường thực hiện việc này 3 đến 4 lần một tuần, thậm chí có bạn thủ dâm vài lần một ngày. Tuy nhiên, không có một “hạn mức” cụ thể nào cho từng người. Tần suất thủ dâm hoàn toàn là do nhu cầu, mong muốn và điều kiện cá nhân... của mỗi người quyết định, miễn là không ảnh hưởng đến người khác, và không ảnh hưởng đến việc sinh hoạt, học tập và công tác của bản thân. Nếu việc thủ dâm không những có thể giúp làm giảm nhu cầu tình dục tăng cao (khi chưa có bạn tình để giải toả), mang lại khoái cảm và niềm vui thực sự trong cuộc sống mà còn là tiền đề để có thể tập trung học tập, công tác tốt thì chẳng có lý do gì để phê phán. Với riêng các bạn nữ, do đặc thù về cấu tạo cơ thể nên việc thủ dâm có thể sẽ dẫn đến việc rách màng trinh, nhiễm trùng âm đạo nên cần phải lưu ý một chút, như rửa sạch tay trước khi thủ dâm, không đưa vật quá cứng, không đảm bảo vệ sinh vào trong âm đạo...

    Như vậy, một khi đã xác định được một cách khoa học và khách quan về hiện tượng thủ dâm, nhất là đối với lứa tuổi thanh niên, thì việc coi đó là một hành vi tội lỗi có thể sẽ không còn nữa. Nhưng cho dù như vậy thì việc “chung sống” với nó thế nào cũng không phải là điều có thể hoàn toàn không cần nghĩ tới…


    GiaoDucGioiTinhOnline
    Lần sửa cuối bởi Tuanmecsedec, ngày 03-08-2013 lúc 10:52.

  3. #23
    Admin diendanhiv.vn
    ( Sanh năm 1971 ) 17 năm trong chuyên môn tư vấn HIV miễn phí
    Tuanmecsedec's Avatar
    Ngày tham gia
    29-08-2007
    Giới tính
    Nam
    Đến từ
    Giấy chứng nhận tham vấn số : 041/UB AIDS - TV do ủy ban phòng chống HIV/AIDS TPHCM.
    Bài viết
    103,925
    Cảm ơn
    1,921
    Được cảm ơn: 21,170 lần
    Bài 5- Thủ dâm ở Nam

    Thủ dâm ở nam giới


    Cánh đàn ông đều thừa nhận mình đã thủ dâm rất nhiều khi còn thiếu niên, nhưng ít người công nhận vẫn làm việc này khi đã trưởng thành. Thủ dâm như một thú vui khám phá bản thân theo cánh mày râu gần suốt cuộc đời, do đó học cách làm cho nó chỉ có giá trị như trò giải khuây, không ảnh hưởng đến đời sống tình dục là việc đức ông nào cũng nên học.



    Các chuyên gia tâm sinh lý và các nhà nhân chủng học cho rằng thủ dâm là hình thức tình dục tự nhiên nhất và dễ thực hiện nhất, cho phép khám phá cơ thể của bản thân và đóng vai trò thiết yếu trong việc thay thế hoặc bổ sung cho những quan hệ tình dục ngay cả khi đã trưởng thành. Với đàn ông, hành động thủ dâm giúp khám phá khả năng tình dục của mình trước khi anh ta khám phá những người khác. Không những thế, nó còn đóng vai trò thay thế những cuộc ân ái khi không có bạn tình. Ở lứa tuổi thiếu niên, thủ dâm là hành động chứng tỏ và khẳng định giới tính.
    Thủ dâm là dùng tay kích thích tuy nhiên cách kích thích cũng rất khác nhau giữa người này và người khác. Thường, họ vuốt ve dương vật .
    Thủ dâm để làm gì?
    Đối với con người, hành động thủ dâm có tác dụng làm giảm sự lo lắng và stress vì niềm hứng thú đóng vai trò cơ bản trong việc giữ cân bằng sinh lý. Đây cũng là một trò chơi đưa người chơi thoát khỏi thực tại mà không gây nguy hiểm gì cho anh ta và người khác. Khi lạc vào một thế giới không có thực, con người sẽ tìm được sự cân bằng bản thân, tự giải thoát và tạo cho mình một khu vườn cấm.
    Đôi khi thủ dâm đóng vai trò thay thế: Khi quan hệ tình dục giữa cặp vợ chồng đã tốt đẹp nhưng một trong hai người vẫn chưa cảm thấy thoả mãn, nhưng không muốn lâm vào cảnh rắc rối khi quan hệ với một người thứ ba. Giải pháp cho tình trạng này là tạo cho mình một thế giới tưởng tượng. Ở đó, người ta tự làm thoả mãn những gì mình thiếu.
    Cũng có cặp vợ chồng thủ dâm cho nhau để tìm cảm giác mới.
    Thủ dâm - một cách học làm chủ sự kích động
    Cách thức thủ dâm của người đàn ông sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống tình dục của anh ta. Chẳng hạn, người nào xiết quá chặt dương vật lúc thủ dâm sẽ khó xuất tinh khi quan hệ. Lúc này, âm hộ người phụ nữ được bôi trơn nhiều, người đàn ông không cảm thấy sự cọ xát mạnh mẽ như khi anh ta tự dùng tay.
    Vì vậy thủ dâm đòi hỏi phải có nghệ thuật. Để không bị kích thích quá mạnh, cần bắt đầu bằng những động tác chậm. Nếu biết kìm mình và giảm tốc độ khi cần thiết, có thể kéo dài việc này 10-15 phút, thậm chí nửa giờ. Trong khoảng thời gian này, người đàn ông thủ dâm được rèn luyện cơ thể, trí não và các phản xạ, làm quen với trạng thái ngất ngây kéo dài. Sự rèn luyện này sẽ hình thành cho anh ta khả năng làm chủ bản thân.
    Nếu cứ đợi cho đến khi có bạn tình rồi mới học cách làm chủ, người đàn ông có thể làm bạn tình phật ý (phụ nữ khó mà biết được tiền sử thủ dâm của anh ta). Còn nếu học cách làm chủ một mình, người ta có thể thực hiện bất cứ khi nào muốn và bao nhiêu lần cũng được để đạt mục đích.
    Nên hay không nên thủ dâm?
    Một số người cảm thấy tội lỗi khi thủ dâm, như cảm giác ăn trộm. Tuy nhiên, các chuyên gia tình dục học lại cho rằng thủ dâm chỉ nguy hiểm khi người đàn ông từ chối quan hệ tình dục với bạn đời vì đã quá thoả mãn với thủ dâm. Nếu thủ dâm chỉ là những khoảnh khắc đi tìm cuộc sống riêng tư hay tìm sự cân bằng thì không có gì lo ngại.
    Các chuyên gia này nhất trí rằng, người đàn ông có nhiều cách sống với tình dục của mình. Thủ dâm là một trong những cách đó. Dù hành vi này có thường xuyên xảy ra hay không, được thực hiện do một hay cả hai người, nó cũng làm cho cuộc sống của đàn ông thêm màu sắc. Thủ dâm hay không thủ dâm, sự lựa chọn tuỳ thuộc mỗi người.

    Một số quan điểm chưa đúng về thủ dâm

    Thủ dâm gây ra vô sinh

    Thủ dâm không liên quan gì đến các nguyên nhân gây vô sinh vì thủ dâm cũng là một hoạt động tình dục bình thường như các trường hợp có quan hệ tình dục khác. Khi đó thực hành thủ dâm rất phổ biến trong nam giới mặc dù không có nhiều người chia sẻ với nhau về điều này nên khi rơi vào tình huống vô sinh, những người trong cuộc thường nhớ về các hành vi tình dục của mình khi trẻ và lo lắng rằng thủ dâm trước đó đã gây ra tình trạng vô sinh ở họ. Nhưng thực tế chưa có nghiên cứu nào cho thấy có sự liên quan giữa hai vấn đề này.

    Thủ dâm có ảnh hưởng đến khả năng sinh tinh trùng

    Thủ dâm không có ảnh hưởng đến khả năng sinh tinh trùng, vì hàng ngày một lượng tinh trùng nhất định được sinh ra, khi đó tinh trùng không được xuất ra ngoài sẽ được tái hấp thu lại để sinh tinh trùng mới. Việc xuất ra ngoài không ảnh hưởng hay làm mất đi tinh trùng của cơ thể.

    Thủ dâm làm nẩy sinh tình trạng xuất tinh sớm

    Thủ dâm không làm nẩy sinh tình trạng xuất tinh sớm. Với những người xuất tinh sớm, liệu pháp tự kích thích và ngừng lại để tăng khả năng kiểm soát thời điểm xuất tinh là một liệu pháp có hiệu quả tốt. Liên quan giữa thủ dâm và xuất tinh ở chỗ người thủ dâm thường mong muốn xuất tinh nhanh vì không ở trong điều kiện phù hợp (sợ người khác biết, mong muốn sớm đạt khoái cảm để chấm dứt hành động đó vì cho rằng thủ dâm là điều không tốt hoặc không nên làm)... nên đã có thể tạo cho bản thân họ thói quen kích thích nhanh để đạt cực khoái mà không chú ý đến việc giữ lâu và đạt được khoái cảm của cả hai người.

    Tình trạng này sẽ được khắc phục khi người nam suy xét lại hành động của mình và tập kiểm soát khả năng xuất tinh cảm mình

    GiaoDucGioiTinhOnline
    Lần sửa cuối bởi Tuanmecsedec, ngày 03-08-2013 lúc 11:11.

  4. #24
    Admin diendanhiv.vn
    ( Sanh năm 1971 ) 17 năm trong chuyên môn tư vấn HIV miễn phí
    Tuanmecsedec's Avatar
    Ngày tham gia
    29-08-2007
    Giới tính
    Nam
    Đến từ
    Giấy chứng nhận tham vấn số : 041/UB AIDS - TV do ủy ban phòng chống HIV/AIDS TPHCM.
    Bài viết
    103,925
    Cảm ơn
    1,921
    Được cảm ơn: 21,170 lần
    Bài 6- Thủ dâm ở Nữ giới

    Thủ dâm ở nữ giới


    Phụ nữ cũng có xu hướng thủ dâm như nam giới. Nhiều bạn gái phát hiện rằng họ có cảm giác dễ chịu khi được kích thích vào bộ phận sinh dục, và nhiều bạn phát hiện cách thủ dâm để đạt cực khoái vào khoảng nửa cuối tuổi vị thành niên.



    Thủ dâm thường xảy ra ở tuổi dậy thì, ở lứa tuổi này có những thay đổi lớn về tâm-sinh lý, đặc biệt là tâm sinh lý tình dục. Không nên đồng hóa thủ dâm với các thay đổi tính tình hay các hoạt động khác của trẻ vị thành niên.
    Một con số thống kê đáng tin cậy cho kết quả là hầu hết đàn ông đều đã từng thủ dâm trong đời, còn ở phụ nữ thì vào khoảng từ 10 đến 30% tùy theo tình trạng xã hội, giáo dục và gia đình.
    Phụ nữ thường thủ dâm bằng cách kích thích âm vật, môi lớn, môi bé và những điểm nhạy cảm khác như núm vú, mặt trong bẹn. Nhìn chung phụ nữ bắt đầu bằng cách chạm vào ngay trên hay dưới âm vật, nhưng khi sự kích thích tăng lên họ có thể chịu đựng các kích thích mạnh hơn ở xung quanh âm vật. Một số phụ nữ có ham muốn tình dục rất cao đến nỗi họ có thể đạt cực khoái đơn giản bằng cách cọ xát núm vú nhưng đây chỉ là số ít trong. Những phụ nữ khác phát hiện rằng họ có thể đạt cực khoái bằng cách ép chặt đùi với nhau.
    Ngày nay, nhiều nhà nghiên cứu tình dục học đồng ý rằng nếu một phụ nữ có thể đạt cực khoái bằng thủ dâm thì cô ta có thể dễ dàng hơn khi đạt được cực khoái với bạn tình cho dù là đang âu yếm hay giao hợp. Đạt tới cực khoái bằng thủ dâm giúp cho phụ nữ tự tin hơn và thõa mãn trong quan hệ tình dục, tự khám phá những điểm nhạy cảm trên cơ thể. Điều này sẽ giúp bạn gái dễ dàng hơn khi trao đổi với bạn tình về điều mà bạn muốn để đạt được cảm giác dễ chịu nhất.

    Một số điều cần chú ý khi thực hiện thủ dâm ở nữ là có thể dẫn đến việc rách màng trinh, nhiễm trùng âm đạo và tiền đề cho việc buông thả quan hệ tình dục. Thực sự thủ dâm không làm hao mòn thân xác và suy nhược thần kinh mà chính những người yếu kém về mặt tinh thần, bệnh hoạn, thiếu tự chủ, thiếu sự kiềm chế, thiếu mục đích của cuộc sống và thiếu giải trí để làm dụng thủ dâm như một phương tiện thường xuyên nhằm để trấn an những bức xúc hoặc thỏa mãn những đòi hỏi thân xác chưa đến độ chín muồi.

    Đạt cực khoái khi thủ dâm ở nữ
    Thủ dâm không chỉ giúp bạn đạt được khoái cảm, giải toả được tâm lý tình dục mà còn giúp bạn có thêm kinh nghiệm trong quan hệ tình dục. Dưới đây có đề cập đến một số biện pháp thường được áp dụng để đạt được cực khoái trong thủ dâm ở phụ nữ.

    1. Ấn định thời gian ít nhất một giờ, hai lần một tuần khi bạn biết bạn sẽ có không gian riêng cho mình và bảo đảm không bị quấy rầy (việc sắp xếp này có thể là phần khó nhất).


    2.Tắm sạch sẽ sử dụng sữa tắm bạn yêu thích nhất. Thư giãn thưởng thức khi thoa xà phòng lên khắp cơ thể. Chú ý nhiều đến ngực và bộ phận sinh dục

    3.Lau khô nhẹ nhàng cẩn thận và tiếp tục lau khắp cơ thể.

    4. Đi vào phòng ngủ, bảo đảm căn phòng ấm cúng là nơi dễ thương. Bật một chút âm nhạc bạn thích. Nằm trên giường và tiếp tục chạm vào khắp cơ thể bất kỳ lúc nào bạn thích. Tất cả các bộ phận cơ thể nên đem lại cảm giác dễ chịu. Hãy tìm chúng, chú ý đến chúng nhận thức sự dễ chịu.

    5.Xoa dầu trẻ em vào ngực và cổ tận hưởng cảm giác khoan khoái.

    6.Dần đưa tay xuống phần dưới cơ thể thoa phần bụng và sử dụng dầu trẻ em và chạm vào giữa hai chân. Chẳng có gì là đúng hay sai cả. Hãy để bản năng bạn lấn lướt.

    7.Trượt ngón tay vào âm đạo. Cố gắng có thể cơ quanh các ngón tay. Rồi thư giãn. Thử nhẹ nhàng banh lỗ âm đạo. Điều này đôi khi tạo nên khoái cảm cho nhiều phụ nữ.

    8.Bắt đầu thoa tròn quanh vùng có âm vật. Đừng vội vàng. Khi bạn trở nên chú ý vào bộ phận sinh dục bạn có thể thấy rằng bạn bắt đầu ấn mạnh hơn vào âm vật và hơi thở của bạn nhanh hơn và hay nhất là bạn thực sự bắt đầu thích thú.

    9. Đừng lo lắng nếu bạn không đạt được gì hơn trong lần đầu. Miễn là bạn cảm thấy bạn yêu thích thân thể mình và bạn hiểu rõ nó và có những cảm giác dễ chịu. Vậy là tốt.

    10. Đừng quên rằng phần kích thích mạnh mẽ nhất của phụ nữ là ở não bộ. Vì thế cũng có thêm kích thích về tinh thần. Cố gắng nghĩ điều gì cuốn hút bạn. Hay trong khi bạn kích thích mình hãy đọc một trong những tiểu thuyết tình ái dành cho phụ nữ.

    Bạn có thể thậm chí thích xem phim video khiêu gợi. Hay nếu bạn có một máy quay phim trong phòng hay ở nơi nào trong nhà mà bạn cảm thấy thoải mái và không bị ức chế. Bạn có thể thích một máy rung bởi vì nhiều phụ nữ thấy điều này làm tăng cảm giác đáng kể. Nếu bạn không biết kiếm sách băng video hay dụng cụ trợ giúp tình dục xin hãy xem thêm thông tin chi tiết.

    11.Mỗi lần bạn bắt đầu xoa cơ thể cố gắng duy trì lâu hơn và làm tăng sự khoái cảm khi đang tìm hiểu về chính cơ thể bạn. Đừng lo sợ nếu đôi khi bạn có cảm giác đang làm điều gì sai trái. Chỉ thở sâu và nói với bạn rằng đây là quyền được yêu và được thưởng thức chính cơ thể phụ nữ, rằng thủ dâm là lành mạnh, tốt và bình thường.

    12.Một ngày nọ bạn sẽ thấy sự mơn trớn trở nên thường xuyên hơn và bạn thở mạnh hơn và rằng bạn cảm giác sự thúc giục tuyệt vọng để làm cái bạn đang làm. Thường bạn cảm giác lo lắng một chút về tính dữ dội của việc đang xảy ra nếu bạn chưa bao giờ cảm nhận nó nhưng lại đi cùng với cảm giác sờ mó.

    Đa số phụ nữ thích đạt cực khoái vài lần trước khi có bạn tình nhưng một khi bạn chọn để thử với người mà mình yêu bảo đảm bạn áp dụng cái mà bạn đã thực tập khi ái ân. Thể hiện cho bạn tình biết bạn thích gì và để người đó giúp bạn để có cảm giác tuyệt vời này.

    Nếu bạn tuân theo kế hoạch này mà không cần đặt nặng vấn đề thành công bạn sẽ trở nên có kinh nghiệm về tình dục và không nên quá lâu trước khi bạn đạt cực khoái.
    Lần sửa cuối bởi Tuanmecsedec, ngày 03-08-2013 lúc 11:13.

  5. #25
    Admin diendanhiv.vn
    ( Sanh năm 1971 ) 17 năm trong chuyên môn tư vấn HIV miễn phí
    Tuanmecsedec's Avatar
    Ngày tham gia
    29-08-2007
    Giới tính
    Nam
    Đến từ
    Giấy chứng nhận tham vấn số : 041/UB AIDS - TV do ủy ban phòng chống HIV/AIDS TPHCM.
    Bài viết
    103,925
    Cảm ơn
    1,921
    Được cảm ơn: 21,170 lần
    Bài 4- Chú ý trước khi sử dụng thuốc tránh thai

    Thuốc uống tránh thai là biện pháp tránh thai có hiệu quả tránh thai cao và hầu hết các bạn nữ đều có thể sử dụng được. Tuy nhiên, thuốc tránh thai không phòng tránh được các bệnh lây truyền qua đường tình dục và HIV/AIDS.



    Được nghiên cứu từ năm 1920 nhưng mãi đến năm 1960, thuốc tránh thai mới được phép lưu hành trên thế giới. Thuốc được chế tạo trên cơ sở sử dụng nội tiết tố nữ là Estrogen và Progestin. Ngoài tác dụng tránh thai, thuốc còn có một số ưu điểm là: giảm chứng đau bụng kinh, kinh nguyệt đều đặn và nhẹ nhàng hơn do vậy cải thiện tình hình thiếu máu ở phụ nữ, giảm nguy cơ ung thư buồng trứng và nội mạc tử cung...Tuy nhiên, thuốc tránh thai không phòng tránh được các bệnh lây truyền qua đường tình dục.

    Các chống chỉ định chủ yếu đối với thuốc uống tránh thai:

    Những người không được sử dụng thuốc tránh thai:

    - Rối loạn tắc mạch huyết khối (hoặc có tiền sử)

    - Tai biến mạch máu não (hoặc có tiền sử )

    - Bệnh động mạch vành (hoặc có tiền sử)

    - Đã xác định hoặc nghi ngờ có u ở vú (hoặc có tiền sử)

    - Đã xác định hoặc nghi ngờ có u phụ thuộc estrogen (hoặc có tiền sử)

    - Đang có thai

    - U gan lành tính hoặc ác tính (hoặc có tiền sử)

    - Tiền sử bị ứ mật khi có thai

    Những người không nên dùng thuốc tránh thai:

    - Đau đầu nặng, nhất là mạch máu hoặc migren

    - Huyết áp cao với huyết áp tâm trương lúc nghỉ 90 hoặc cao hơn, hoặc huyết áp tâm thu lúc nghỉ 140 hoặc cao hơn trong ba lần khám riêng lẻ trở lên, hoặc có huyết áp tâm trương 140 hoặc cao hơn trong một lần đo thật chính xác.

    - Bị bệnh tiểu đường.

    - Bệnh ở túi mật hoạt động

    - Chức năng gan suy giảm

    - Bệnh tăng bạch cầu đơn nhân ở thời kỳ cấp tính

    - Bệnh thiếu máu hồng cầu hình liềm (SS) hoặc thiếu máu SS với HbC (SC)

    - Dự định có phẫu thuật lớn trong 4 tuần tới hoặc có phẫu thuật lớn đòi hỏi bất động.

    - Bó bột chân hoặc có thương tổn nặng ở cẳng chân

    - 40 tuổi trở lên có nguy cơ phát triển bệnh tim mạch.

    - 35 tuổi trở lên đang nghiện thuốc lá nặng (mỗi ngày hút 15 điếu thuốc lá hoặc nhiều hơn)

    Hiện nay, thuốc uống tránh thai có 3 loại chính: thuốc uống tránh thai phối hợp (loại có 2 hoóc môn), thuốc uống tránh thai đơn thuần (chỉ có một hoóc môn) và thuốc tránh thai khẩn cấp.
    Lần sửa cuối bởi Tuanmecsedec, ngày 03-08-2013 lúc 11:18.

  6. #26
    Admin diendanhiv.vn
    ( Sanh năm 1971 ) 17 năm trong chuyên môn tư vấn HIV miễn phí
    Tuanmecsedec's Avatar
    Ngày tham gia
    29-08-2007
    Giới tính
    Nam
    Đến từ
    Giấy chứng nhận tham vấn số : 041/UB AIDS - TV do ủy ban phòng chống HIV/AIDS TPHCM.
    Bài viết
    103,925
    Cảm ơn
    1,921
    Được cảm ơn: 21,170 lần
    Bài 11 - Triệt sản

    Triệt sản là biện pháp chỉ làm một lần mà có tác dụng tránh thai mãi mãi, khả năng sinh sản hầu như không thể phục hồi, hiệu quả rất cao (ở nam giới là 99,9%, ở nữ giới là 99,6%). Nếu bạn đã có đủ số con mình mong muốn, lại không có ý định kết hôn lần nữa thì đây là biện pháp phù hợp nhất. Tuy nhiên, biện pháp này không phòng tránh được bệnh lây truyền qua đường tình dục và HIV/AIDS.


    Triệt sản nữ
    Triệt sản nữ là một biện pháp tránh thai vĩnh viễn, không hồi phục. Hàng năm tại thành phố chúng ta thực hiện khoảng 4.000 trường hợp. Triệt sản nữ là thắt và cắt bỏ một đoạn ống dẫn trứng (2 bên) và như vậy làm cho trứng không gặp và kết hợp với tinh trùng được. Đây có thể nói là biện pháp tránh thai có hiệu quả ngừa thai cao nhất khoảng 99,7%. Hiện nay tại thành phố chúng ta đang thực hiện kỹ thuật “Mở thành bụng nhỏ” (Minilaparotomy).
    Nữ giới thì được cắt và thắt hai ống dẫn trứng nên trứng bị chặn lại, không thể gặp tinh trùng và đi đến tử cung được. Viêc phẫu thuật triệt sản cho nữ giới phức tạp hơn nam giới. Bạn phải ở lại bệnh viện để theo dõi một ngày.
    Đây là biện pháp tránh thai thích hợp với các cặp vợ chồng đã có đủ số con mong muốn, thật sự không còn muốn có thai cũng như những cặp vợ chồng vì vấn đề sức khỏe không thể mang thai thêm như tim mạch, tâm thần...
    Do đây là biện pháp tránh thai không hồi phục cho nên khách hàng cần phải suy nghĩ cẩn thận trước khi quyết định.
    Triệt sản nam
    Triệt sản nam là một biện pháp tránh thai vĩnh viễn, không hồi phục. Hiện nay hàng năm tại thành phố chúng ta thực hiện khỏang 1.000 trường hợp. Triệt sản nam là thắt và cắt một đoạn ống dẫn tinh (hai bên) làm cho không có tinh trùng phóng vào âm đạo để thụ thai. Đây cũng là biện pháp tránh thai có hiệu quả ngừa thai rất cao khoảng 99,5%. Hiện nay tại thành phố chúng ta đang áp dụng kỹ thuật triệt sản nam mới gọi là “Triệt sản nam không dùng dao”. Kỹ thuật mới này cho phép tiến hành rất nhanh khoảng 5 phút; gây tê không đau và người triệt sản có thể lao động bình thường sau triệt sản.
    Đối với nam giới, bác sĩ làm tiểu phẫu đơn giản thắt và cắt hai ống dẫn tinh để ngăn không cho tinh trùng từ tinh hoàn đi lên túi tinh. Do đó khi bạn xuất tinh, trong tinh dịch không còn tinh trùng, nên không thể thụ thai được. Khi thực hiện việc này, bác sĩ dùng thuốc tê nên bạn không đau, làm xong bạn chỉ cần ở lại bệnh viện một tiếng là có thể về.
    Đây là biện pháp tránh thai thích hợp với các cặp vợ chồng đã có đủ số con mong muốn, thật sự không còn muốn có thai cũng như những cặp vợ chồng vì vấn đề sức khỏe không thể mang thai thêm như tim mạch, tâm thần... Thực hiện triệt sản nam cũng là sự thể hiện rõ nét nhất sự chia sẻ trách nhiệm của nam giới trong việc sinh sản của hai vợ chồng.
    Do đây là biện pháp tránh thai không hồi phục cho nên khách hàng cần phải suy nghĩ cẩn thận trước khi quyết định.
    Sau khi thực hiện triệt sản (nam hay nữ), chỉ cần nghỉ ngơi khoảng một hai ngày, sau đó hoạt động bình thường nhưng cần tránh làm việc nặng, chạy nhảy trong khoảng một tuần để vết rạch dễ lành. Bạn có thể tắm rửa trở lại sau khi triệt sản khoảng 24 tiếng nhưng cần giữ vết thương khô ráo để chóng lành và tránh nhiễm trùng. Bạn kiêng giao hợp trong khoảng hai, ba ngày. Riêng với nam giới, khi giao hợp trở lại cần dùng bao cao su trong 20 lần giao hợp hoặc trong 12 tuần (vì túi tinh còn sót lại một ít tinh trùng), sau đó không phải lo tránh thai nữa.
    Lần sửa cuối bởi Tuanmecsedec, ngày 03-08-2013 lúc 11:20.

  7. #27
    Admin diendanhiv.vn
    ( Sanh năm 1971 ) 17 năm trong chuyên môn tư vấn HIV miễn phí
    Tuanmecsedec's Avatar
    Ngày tham gia
    29-08-2007
    Giới tính
    Nam
    Đến từ
    Giấy chứng nhận tham vấn số : 041/UB AIDS - TV do ủy ban phòng chống HIV/AIDS TPHCM.
    Bài viết
    103,925
    Cảm ơn
    1,921
    Được cảm ơn: 21,170 lần
    Bài 12-Dụng cụ tử cung

    Dụng cụ tử cung (vòng tránh thai) thường được gọi là vòng vì trước đây nó có hình vòng tròn hay hình bánh xe. Nó có tác dụng không cho trứng đã thụ tinh làm tổ. Hiệu quả tránh thụ thai đạt 95-97%. Đây là biện pháp tránh thai phù hợp với những phụ nữ đã có một con hoặc đã có đủ số con mong muốn. Dụng cụ tử cung không phòng tránh được bệnh lây truyền qua đường tình dục và HIV/AIDS.


    Trước khi đặt dụng cụ tử cung, cần đo buồng tử cung để chọn cỡ vòng vừa. Vòng quá to sẽ bị tống ra do tử cung co bóp, gây đau bụng, rong kinh. Vòng quá nhỏ có thể rơi ra ngoài hoặc tụt xuống, không chạm đáy tử cung, dẫn đến thụ thai.
    Nếu dụng cụ tử cung được sử dụng và đặt một cách thận trọng cho các phụ nữ chỉ có quan hệ một vợ một chồng thì sẽ là một trong cách tránh thai hiệu quả nhất sẵn có cho phụ nữ.
    Các loại vòng tránh thai
    Dụng cụ tử cung được làm từ chất dẻo mềm, một số được mạ đồng (như Cooper-7, Tcu380, Paragard). Một số loại có chứa progesteron (Progestasert), chất này dần được hấp thụ vào cơ thể phụ nữ. Cả hai loại DCTC mạ đồng và loại chứa hocmon đều sẽ hết hiệu quả và phải được thay thế. Các DCTC bằng chất dẻo (như Lippes Loops) đã được thiết kế để đặt lâu dài trong tử cung mặc dù các nhà sản xuất gợi ý phải thay thế sau 5 nǎm để phòng bệnh actinomyces. Phần lớn các loại dụng cụ tử cung không sẵn có tại Mỹ, chỉ có sẵn progestasert. Từ 1988 loại Paragard một dụng cụ hình chữ T phủ đồng do Howard Tatum thiết kế trở nên sẵn có và được chỉ định cho các phụ nữ đã sinh con nhiều lần và không có chống chỉ định.
    Các loại dụng cụ tử cung không chứa hocmon tránh được thai nhờ tạo ra phản ứng gây đáp ứng viêm tại chỗ làm dung giải phôi bào và tinh trùng, do đó ngăn cản được làm tổ của trứng do tăng lượng prostaglandin tạo thành tại chỗ. Ngoài đáp ứng viêm đó dụng cụ tử cung chứa đồng còn làm thay đổi hoạt tính của cacbonic anhydrada và phosphataza kiềm và có thể ngăn cản các hiệu ứng estrogen lên nội mạc tử cung và các tác dụng cụ progesterone cung cấp một liều vi lượng của hormon ngăn cản việc làm tổ. Các dụng cụ chứa đồng là phương pháp được dùng nhiều nhất để tránh thai ở nhiều nước thuộc thế giới thứ ba. Các dụng cụ tử cung chứa progestasert đặc biệt phù hợp với phụ nữ thống kinh (dysmennorrhea) hoặc ra kinh nhiều bởi vì progesteron của dụng cụ tử cung làm giảm cả hai hiện tượng khó chịu này. Loại dụng cụ tử cung này dường như cũng cỏ ích cho những phụ nữ có triệu chứng kinh nguyệt sớm. Nó phải đặt lại hàng năm và gây chảy máu giữa chu kỳ.
    Cách sử dụng dụng cụ tử cung
    Dụng cụ tử cung được đặt vào tử cung người dùng trong khi có kinh, khi đó cổ tử cung có phần giãn ra làm cho việc đặt dụng cụ tử cung được dễ dàng hơn. Dây dụng cụ tử cung nối với đầu của dụng cụ được cắt ngắn để thò 2-4cm tính từ lỗ cổ tử cung. Hầu hết phụ nữ dung nạp tốt qui trình đặt dụng cụ tử cung, có thể cho trước khi đặt một liều 500mg naproxen hoặc 800mg ibuprofen để giảm bớt sự khó chịu do việc đặt dụng cụ tử cung gây ra. Một số phụ nữ bị chảy máu trong mấy ngày, thấy đau bụng hay đau lưng sau khi đặt dụng cụ tử cung. Những triệu trứng này giảm dần theo thời gian và với việc sử dụng những thuốc ức chế prostaglandin. Trong mấy tháng đầu có thể ra máu thấm giọt giữa các lần có kinh nguyệt và có thể có kinh nhiều hơn. Vị trí của dụng cụ tử cung cần được kiểm tra sau khi đặt một tháng. Trong lần khám này phần lớn các tác dụng phụ lớn sẽ giảm hẳn.
    Chống chỉ định
    Những người bị viêm nhiễm cơ quan sinh dục, có tiền sử chảy máu âm đạo không rõ nguyên nhân và ung thư cơ quan sinh dục không được dùng dụng cụ tử cung. Người dùng dụng cụ tử cung cũng không được có bệnh để không đưa được một vật lạ vào cơ thể, ví dụ như viêm màng trong tim bán cấp, viêm cầu thận, suy thận, sa van hai lá hoặc mất miễn dịch. Lý tưởng là những người dùng dụng cụ tử cung không được có các yếu tố nguy cơ sau: có nhiều bạn tình, có tiền sử mắc bệnh viêm khung chậu, có nguy cơ mắc bệnh lậu hoặc chlamydia, chưa chửa đẻ lần nào, có tiền sử vô sinh, kinh nguyệt nhiều và đau.
    Những người đặt dụng cụ tử cung cần có khả nǎng (về mặt tinh thần) phát hiện và báo cáo về bất cứ nhiễm khuẩn nào liên quan đến dụng cụ tử cung, tuột dụng cụ tử cung có khả năng có thai hoặc sự xuất hiện của kỳ kinh ra nhiều không bình thường. Những phụ nữ có tử cung to hoặc đã có con, chỉ có một bạn tình là những người rất phù hợp với dụng cụ tử cung, bởi vì chúng có thể đặt được dễ dàng, tỷ lệ tuột dụng cụ tủe cung thấp và thường không bị viêm khung chậu.
    Tác dụng phụ và tai biến
    Các vấn đề phổ biến nhất của dùng dụng cụ tử cung là ra máu thấm giọt (10-15% số người dùng), kinh nguyệt nhiều, chảy máu giữa các kỳ kinh, điều này có dẫn đến thiếu máu, thiếu sắt. Những vấn đề khác bao gồm: tuột dụng cụ tử cung (5-25% số người dùng trong năm đầu, sau đó hiếm xảy ra) chuyển vị trí trong tử cung, trở thành cố định trong nội mạc lử cung và làm thủng dạ con.
    Tai biến nghiêm trọng nhất là dụng cụ tử cung có thể đẫn đến viêm khung chậu. Nhiều nghiên cứu kỹ đã xác định là nguy cơ bị bệnh viêm khung chậu tăng (VKC), lúc đầu phát triển chậm và có thể tiến triển tới viêm nội mạc tử cung, viêm cơ tử cung và đôi khi áp buồng trứng - vòi trứng. Bệnh này thể hiện như hội chứng tiền kinh nguyệt (phù nề, ra máu giọt), khí hư có mùi hôi, ớn lạnh, chán ǎn, đau nhiều ở bụng dưới hoặc vô sinh. Có thể điều trị bệnh ngoại trú bệnh VKC ở những giai đoạn đầu bằng ceftriaxone, doxycycline, azithromycin và metronidazole trong những trường hợp nặng hơn. Nếu nghi ngờ một người dùng dụng cụ tử cung bị VKC thì phải tháo dụng cụ tử cung ngay. Cũng như các phương pháp tránh thai khác, trước khi đặt dụng cụ tử cung cần cân nhắc thận trọng và lợi ích của phương pháp này đối với người dùng. Theo dõi cẩn thận vấn đề thường có thể ngăn ngừa được bệnh VKC và các tai biến của bệnh này.
    Trước khi đặt vòng, người phụ nữ cần chữa lành các viêm nhiễm hoặc u tử cung. Sau khi sạch kinh 2-3 ngày, sau khi đẻ sáu tuần mới được đặt. Sau đó, cần kiêng giao hợp trong hai tuần, tránh ngâm mình xuống nước, hàng ngày làm vệ sinh đầy đủ. Có như vậy mới ít bị tai biến. Việc đặt và tháo vòng cần được tiến hành bởi nhân viên y tế.
    Kiểm tra dụng cụ tử cung
    Đôi lúc vòng tránh thai có thể bị tuột ra, đặc biệt trong một vài tháng đầu sau khi đặt hay trong thời kì kinh nguyệt. Dụng cụ tử cung có thể bị tuột ra ngoài mà người phụ nữ không cảm nhận được.
    Bạn nên kiểm tra xem dụng cụ tử cung có còn có ở vị trí không:
    Tuần một lần trong tháng đầu sau khi đặt vòng.
    Thỉnh thoảng sau thời kì kinh nguyệt dụng cụ tử cung có thể ra ngoài cùng với máu kinh.
    Cách kiểm tra dụng cụ tử cung
    Rửa tay sạch sẽ
    Ngồi xổm
    Đưa một hay hai ngón tay trỏ vào trong âm đạo của mình càng sâu càng tốt cho đến khi cảm thấy được các dây. Đến trung tâm dịch vụ sức khoẻ nếu cảm thấy dụng cụ tử cung có thể đã ra khỏi vị trí.
    Không nên kéo các sợi dây vì có thể làm cho dụng cụ tử cung kéo ra khỏi vị trí
    Rửa lại tay sạch sẽ
    Nếu đặt vòng sau khi sinh, các dây không phải luôn thò xuống qua cổ tử cung vì lúc đó tử cung đang giãn to.
    Vòng tránh thai thường được sử dụng với những phụ nữ đã có một con hoặc đã có đủ số con mong muốn

    GiaoDucGioiTinhOnline
    Lần sửa cuối bởi Tuanmecsedec, ngày 03-08-2013 lúc 11:20.

  8. #28
    Admin diendanhiv.vn
    ( Sanh năm 1971 ) 17 năm trong chuyên môn tư vấn HIV miễn phí
    Tuanmecsedec's Avatar
    Ngày tham gia
    29-08-2007
    Giới tính
    Nam
    Đến từ
    Giấy chứng nhận tham vấn số : 041/UB AIDS - TV do ủy ban phòng chống HIV/AIDS TPHCM.
    Bài viết
    103,925
    Cảm ơn
    1,921
    Được cảm ơn: 21,170 lần
    Bài 13- Các biện pháp tránh thai tự nhiên

    Các biện pháp tránh thai tự nhiên là các biện pháp không dùng một dụng cụ nào, chứ cách thực hiện cũng không phải là tự nhiên. Các phương pháp này ít hiệu quả. Cũng chính do kém bảo đảm mà ảnh hưởng đến tâm lý người sử dụng, gây lo lắng và không thoải mái khi sinh hoạt tình dục.


    Kiêng giao hợp âm đạo
    Giao hợp âm đạo là hành động tình dục có dương vật ở trong âm đạo. Kiêng giao hợp có nghĩa là không làm điều đó.
    Hiệu quả của phương pháp này phụ thuộc vào cách thực hiện. Nếu hai bạn không sinh hoạt tình dục thì hoàn toàn không có khả năng thụ thai. Nhưng cũng có thể hai bạn có sự vuốt ve, âu yếm, tạo cho nhau khoái cảm tình dục, chỉ tránh không cho dương vật vào trong âm đạo. Như thế gọi là sinh hoạt tình dục không giao hợp âm đạo. Nếu khoái cảm của bạn nam dẫn đến xuất tinh, hai bạn phải cẩn thận không để tinh dịch xuất ra ở gần cửa mình bạn nữ vì chỉ cần một chút tinh dịch rớt vào bên trong âm đạo cũng có khả năng gây thụ thai. Ngoài ra, tinh trùng cũng có thể tồn tại một lượng nhỏ trong chất dịch tiết ra ở dương vật trước khi xuất tinh, do đó cũng không nên để chất dịch đó rơi ở cửa mình của bạn nữ.
    Nếu có ý định sinh hoạt tình dục không giao hợp, hai bạn phải cảnh giác với mình, đừng để quá đà thành giao hợp.
    Xuất tinh ngoài âm đạo
    Đó là khi đang giao hợp, sắp đến lúc xuất tinh, người nam rút dương vật ra khỏi âm đạo, xuất tinh ra ngoài.
    Phương pháp này hiệu quả thấp, chỉ khoảng 60-70%, vì ngay trong dịch tiết ra từ dương vật do hưng phấn tình dục (trước khi xuất tinh) cũng có thể có tinh trùng, đó là chưa kể trước khi phóng tinh, một hai giọt tinh dịch có thể rơi ra rồi mà người nam không biết, có thể gây thụ thai. Hơn nữa, việc xuất tinh ra ngoài khó thực hiện được đều đặn, vì nhiều khi người nam không dừng lại kịp, xuất tinh từ lúc chưa kịp rút dương vật ra.
    Ngoài vấn đề hiệu quả thấp, biện pháp này còn có nhược điểm rất lớn là hai người luôn ở trong tâm trạng căng thẳng dè chừng thời điểm xuất tinh để rút ra kịp thời, không thật sự thoải mái trong giao hợp. Bên cạnh đó rút dương vật ra làm giảm khoái cảm của người nam khi gần đến đỉnh điểm, đồng thời dễ gây hẫng hụt ở người nữ.
    Tính vòng kinh
    Tính vòng kinh là theo dõi chu kỳ kinh nguyệt của người phụ nữ, tính ra thời kỳ mà nếu giao hợp thì có khả năng thụ thai cao (thời kỳ không an toàn), để kiêng giao hợp hoặc dùng một biện pháp bổ trợ (như bao cao su) trong thời ký đó.
    Phương pháp này hiệu quả thấp vì kinh nguyệt phụ nữ có những dao động thông thường (vài ba ngày) và dao động bất thường (một tuần, nửa tháng do căng thẳng về tinh thần hoặc ốm đau), nên tính có thể không chính xác. Vả lại, có những chu kỳ không có trứng rụng, sau đó trứng có thể rụng bất cứ lúc nào, không nhất thiết trong khoảng thời gian tính được. Đó là chưa kể thời gian không an toàn tính ra khá dài nên khó kiềm chế.
    Cách tính:
    Có nhiều phương pháp tính: đếm ngày, cảm nhận sự rụng trứng, theo dõi nhiệt độ cơ thể, theo dõi chất dịch cổ tử cung... nhưng đều phức tạp. Chúng tôi xin trình bày một cách đơn giản nhất: bạn theo dõi từ 6-8 chu kỳ kinh nguyệt (Lưu ý: Chu kỳ được tính từ ngày bắt đầu hành kinh đến ngày cuối cùng trước đợt hành kinh tiếp theo). Chỉ khi các chu kỳ không chênh nhau quá hai ngày, bạn mới có thể áp dụng được biện pháp này:

    Ngắn trừ 20, dài trừ 10

    Lấy số ngày của chu kỳ ngắn nhất trừ đi 20, được ngày không an toàn đầu tiên.
    Lấy số ngày của chu kỳ dài nhất trừ đi 10, được ngày không an toàn cuối cùng
    Ví dụ, bạn theo dõi kinh nguyệt của mình và thấy:
    • Chu kỳ thứ nhất dài 29 ngày
    • Chu kỳ thứ hai dài 30 ngày
    • Đến chu kỳ thứ tám, bạn thấy các chu kỳ dao động rất ít, chỉ từ 29 đến 31 ngày.
    • Bạn sẽ tính như sau: lấy 29 trừ đi 20 được 9; 31 trừ đi 10 được 21.
    Vậy thời kỳ không an toàn là từ ngày thứ 9 đến ngày thứ 21 trong mỗi chu kỳ. Có nghĩa là từ ngày 9 đến ngày 21 của chu kỳ, Lan không nên có quan hệ tình dục, hoặc nếu có thì nên sử dụng bao cao su.
    Cho con bú vô kinh
    Nếu bạn mới sinh con chưa được 6 tháng, chưa có kinh trở lại và đang cho con bú hoàn toàn thì có thể nhờ đó mà tránh thai. Đủ các điều kiện này, hiệu quả tránh thai khá cao, khoảng 98%. Lý do là việc cho con bú trong thời gian này tác động đến việc sản xuất các hoóc môn của người mẹ, ức chế sự rụng trứng.
    Tuy nhiên, biện pháp này thuộc loại “kém hiệu quả” vì chỉ cần một trong ba điều kiện thay đổi, có nghĩa là con bạn đã được hơn 6 tháng, hoặc đã hành kinh trở lại, hoặc cho con bú không hoàn toàn thì tác dụng tránh thai không còn nữa. Bạn phải sử dụng một biện pháp tránh thai khác.
    Bạn cần biết cho con bú hoàn toàn là chỉ cho bé bú mẹ, cho bú mẹ, cho bú liên tục, bất cứ lúc nào bé muốn bú, không cho bé ăn uống gì thêm.
    Lần sửa cuối bởi Tuanmecsedec, ngày 03-08-2013 lúc 11:21.

  9. #29
    Admin diendanhiv.vn
    ( Sanh năm 1971 ) 17 năm trong chuyên môn tư vấn HIV miễn phí
    Tuanmecsedec's Avatar
    Ngày tham gia
    29-08-2007
    Giới tính
    Nam
    Đến từ
    Giấy chứng nhận tham vấn số : 041/UB AIDS - TV do ủy ban phòng chống HIV/AIDS TPHCM.
    Bài viết
    103,925
    Cảm ơn
    1,921
    Được cảm ơn: 21,170 lần
    Phần V- PHÁ THAI

    Phá thai an toàn


    Hiện nay có không ít người cho rằng phá thai là tội lỗi, là ác độc. Tuy nhiên, bạn thử tưởng tượng xem, nếu như bạn chưa chuẩn bị đủ điều kiện chăm lo cho một đứa trẻ như là một vật báu được mong đợi của gia đình thì liệu có đem lại cuộc sống hạnh phúc cho đứa con yêu dấu của bạn không? Hay nếu như việc mang thai sẽ ảnh hưởng đến sức khoẻ và tính mạng của người phụ nữ thì liệu có nên "liều lĩnh" giữ thai lại không? Trong những trường hợp đó, phá thai có thể là cần thiết. Tuy nhiên, việc phá thai luôn tiềm ẩn những nguy cơ tai biến, vì vậy bạn cũng cần cân nhắc điều kiện hoàn cảnh của mình thật kỹ trước khi đi đến quyết định này.


    Phá thai là gì?Phá thai được hiểu một cách đơn giản là một biện pháp nhằm chấm dứt quá trình thai nghén. Nó có thể xảy ra theo 2 cách: ngẫu nhiên hoặc có mục đích. Hầu hết các vụ phá thai đều có mục đích. Những trường hợp ngoại lệ, tức là những vụ phá thai vì "tai nạn", được thực hiện do các khuyết tật của người mẹ hoặc đứa con, đôi khi của cả hai. Chúng được gọi là trường hợp "phá thai bộc phát" để phân biệt với những trường hợp không phải vì tai nạn, mà bị gọi bằng cái tên "hơi quá mạnh" là "tội phá thai". Điều này gây lúng túng vì một số trường hợp "tội phá thai" lại được thực hiện một cách bộc phát. Tốt hơn, nên gọi hình thức thứ hai này bằng cái tên "phá thai có chủ đích" hay "cố ý phá thai".Thế nào là phá thai không an toàn?Loại phá thai nguy hiểm nhất có lẽ là kiểu "lén lút" và “dân dã” mà những người có thai tự đưa vào tử cung mình những chất hoá học. Một số bạn gái khi lần đầu có thai đã rất lo sợ, không dám đến bệnh viện. Trong điều kiện ở nhà có bạn đã tự hành hạ mình bằng cách đặt vào âm đạo những hoá chất hoặc tiêm qua ven những chất độc để gây sảy thai. Sau những cuộc “phẫu thuật” lén lút như vậy nguy cơ vô sinh thường gặp cao gấp 4 lần.

    Nguy hiểm còn có thể xảy ra đối với những trường hợp phá thai đã quá lớn – trên 12 tuần tuổi. Trong những trường hợp này khi nạo dễ xảy ra những tổn thương khác nhau đối với cổ tử cung. Một trong những nguy hiểm là do xương của bào thai đã quá to có thể làm xây xước hoặc làm thủng tử cung. Đối với những bạn gái có u khi phá thai cũng rất nguy hiểm.

    Thế nào là phá thai an toàn?
    Phá thai an toàn nhất và ít tai biến nhất là ở các bệnh viện chuyên khoa sản, do các bác sỹ có trình độ chuyên môn và có tay nghề cao thực hiện, theo dõi, cơ sở y tế đảm bảo điều kiện vô trùng tuyệt đối và có thể cấp cứu kịp thời với những trường hợp "tai biến", điều kiện sức khoẻ của sản phụ cho phép thực hiện việc phá thai và tuổi thai chưa quá lớn, trong vòng từ 7 đến 8 tuần.Các biện pháp phá thaiMột vài năm trước đây, biện pháp phá thai bằng hút chân không được sử dụng khá phổ biến, song hiện nay phương pháp này lại ít được sử dụng, bởi sử dụng hút chân không, các phần của phôi thai có thể không hút được ra hết và vẫn phải nạo lại.Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thụât, thủ thuật phá thai cũng dần trở nên bảo đảm và an toàn hơn.Tuỳ thuộc vào tuổi thai và điều kiện của từng cơ sở y tế mà các bác sĩ sẽ đi đến quyết định có thể sử dụng biện pháp phá thai nào thì an toàn nhất cho người phải phá thai.Hiện nay, ở nước ta có những biện pháp phá thai chủ yếu sau:-Phá thai bằng thuốc (được thực hiện đối với trường hợp tuổi thai dưới 7 tuần tuổi)-Hút thai (được thực hiện khi tuổi thai chưa quá 8 tuần tuổi)-Nạo thai (Được thực hiện khi tuổi thai chưa quá 12 tuần tuổi)-Phá thai bằng kovax (được thực hiện khi tuổi thai đã lớn)Việc sử dụng biện pháp phá thai nào là do bác sỹ quyết định, tuỳ thuộc vào kỹ thuật và chuyên môn của bác sĩ tại của các cơ sở y tế đó cũng như tuỳ thuộc vào điều kiện sức khoẻ, tuổi thai.Khi nào cần đi "giải quyết"?Khi có quan hệ tình dục không an toàn (tức là không sử dụng biện pháp tránh thai hoặc sử dụng biện pháp tránh thai không thành công) thì bạn gái có nguy cơ mang thai. Tuy nhiên, trước khi quyết định phá thai, bạn gái cần xác định chắc chắn mình có thai hay không. Tốt nhất là bạn cần thử thai bằng que thử thai nhanh, sau khi có quan hệ tình dục không an toàn từ bảy đến mười ngày hoặc đi siêu âm tại các cơ sở y tế, nếu chậm kinh từ một đến hai tuần. Bạn lưu ý nhé, chậm kinh chưa chắc đã là có thai vì kinh nguyệt có nhiều khi dao động do nhiều nguyên nhân khác nữa như sự lo lắng, căng thẳng, thay đổi môi trường sống... Trước khi nạo, hút thai, nhất thiết phải siêu âm thấy thai nhi đã di chuyển về làm tổ trong tử cung.Địa chỉ cần đếnNơi phá thai an toàn nhất là bệnh viện sản khoa, khoa sản của bệnh viện đa khoa tỉnh, nhà hộ sinh, trung tâm Bảo vệ bà mẹ trẻ em và Kế hoạch hoá gia đình. Tại những nơi này, cán bộ y tế có kỹ thuật, tay nghề, và điều kiện vô trùng đảm bảo. Vẫn biết rằng nhiều bạn nữ muốn giữ bí mật về việc phá thai, nhưng bạn hãy nghĩ đến sức khoẻ của mình, đừng "đùa giỡn" với tính mạng cũng như sức khoẻ sinh sản của bạn sau này mà đến các phòng khám tư không đảm bảo độ tin cậy. Trên thực tế đã có không ít bạn gái phá thai tại các cơ sở không được cấp phép đã bị những tai biến nặng nề như mất máu nặng, nhiễm trùng, thủng tử cung, thậm chí một số bạn mất đi tính mạng. Bạn cũng đừng bao giờ dùng thuốc bỏ thai của các ông lang vườn vì đã có người ngộ độc vì những thuốc này.
    Lần sửa cuối bởi Tuanmecsedec, ngày 03-08-2013 lúc 11:23.

  10. #30
    Admin diendanhiv.vn
    ( Sanh năm 1971 ) 17 năm trong chuyên môn tư vấn HIV miễn phí
    Tuanmecsedec's Avatar
    Ngày tham gia
    29-08-2007
    Giới tính
    Nam
    Đến từ
    Giấy chứng nhận tham vấn số : 041/UB AIDS - TV do ủy ban phòng chống HIV/AIDS TPHCM.
    Bài viết
    103,925
    Cảm ơn
    1,921
    Được cảm ơn: 21,170 lần
    Bài 1- Các nguy cơ khi phá thai

    Việc sử dụng các thủ thuật can thiệp nhằm chấm dứt quá trình thai nghén luôn chứa đựng những nguy cơ, tai biến ngay trong quá trình can thiệp và sau khi đã thực hiện thủ thuật. Bài viết sau đây sẽ giới thiệu với các bạn một số những biến chứng của việc phá thai bằng thủ thuật.


    Biến chứng nguyên phát (Biến chứng trong quá trình thực hiện thủ thuật)Tai biến do gây tê - gây mê

    Trong gây mê có tai biến khoảng 1/ 2.000 và tử vong là 1/ 8.000. Nguyên nhân gây tử vong có thể do không tôn trọng các chống chỉ định của gây mê, do phản xạ ngưng tim hoặc do sốc dị ứng thuốc.
    Trong khi gây tê bằng Xylocaine, nếu thuốc tê vào mạch máu có thể gây ra các cơn co giật theo sau đó là ngạt thở, sốc phản vệ hoặc truỵ mạch đơn thuần với nhịp tim chậm. Đề phòng tai biến này cần phải luôn luôn hút ống chích trước khi tiêm và không bao giờ sử dụng ở liều cao. Các tai biến này hiếm gặp trừ khi sử dụng liều dưới 10 ml Xylocaine 1% và các triệu chứng nhẹ thường gặp như: chóng mặt, ù tai, ngủ gật...

    Xuất huyết

    Xảy ra chủ yếu trong lúc can thiệp và sau khi làm thủ thuật khoảng một giờ. Khoảng 0,05 % trường hợp có xuất huyết quá 500ml. Chúng có thể là hậu quả của tử cung xơ hoá, rối loạn đông máu và của hút thai không hết. Tần số của chúng tăng theo tuổi thai và gây tê làm giảm nguy cơ này. Các thống kê ở Mỹ cho thấy có 0.32 % xuất huyết do gây tê so với 0.54 % do gây mê. Thuốc Méthergin tiêm một cách thường quy không có tác dụng cùng với thuốc tê làm giảm mất máu nhưng kèm theo buồn nôn và nôn.

    Thủng tử cung

    Chẩn đoán thủng tử cung không phải lúc nào cũng dễ, nhưng người ta có thể nghi ngờ khi nong cổ tử cung, khi đo buồng tử cung, khi hút thai thấy xuyên qua rất xa và không gặp tắc nghẽn một cách dễ dàng. Siêu âm có thể giúp chẩn đoán trong trường hợp này.
    Trong tất cả các trường hợp thủng tử cung, cần thiết phải làm cho tử cung trống (lòng tử cung sạch) để cho phép cầm máu và dự phòng bội nhiễm.Cần phân biệt hai trường hợp:Thủng trong quá trình nong cổ tử cung: thực hiện phá thai phải được làm dưới kiểm tra siêu âm. Nước đá dằn trên bụng và kháng sinh kết hợp với theo dõi thân nhiệt để tìm sự nhiễm trùng vùng chậu, tuỳ tình hình sẽ cho siêu âm kiểm tra để loại đi xuất huyết màng bụng và lập hướng xử trí tiếp theo.Thủng trong quá trình nạo hút thai : nguy cơ thủng ruột là không được coi thường. Loại thủng này cần phải được nội soi để kiểm tra kỹ ống tiêu hoá và thấy vết thương đường tiêu hoá hoặc cơ tử cung. Thủng tử cung không được nhận biết hoặc các can thiệp sau đó sẽ làm viêm phúc mạc cho một tiên lượng vô cùng xấu.

    Máu tụ

    Thường xảy ra trong giờ đầu sau phá thai và có thể điều trị dễ dàng bằng nong cổ tử cung và hút lại.

    Rách cổ tử cung

    Hiếm gặp và thường lành tính, thường rách một phần cổ tử cung, chảy máu ít và để lại một sẹo không quan trọng cho tương lai sản phụ khoa. Một số rất ít cần phải may cầm máu và thường gặp khi gây mê. Theo thống kê của Tổ chức Y tế Thế giới, trường hợp này chỉ chiếm khoảng 0.1-1.18%.

    Sốc do đau

    Xuất hiện thường nhất trong quá trình nong cổ tử cung. Nó được dự phòng dễ dàng bằng một thuốc tiền mê, thuốc tê hoặc đơn giản nhất là thông tin chính xác và quan tâm thăm hỏi người bệnh

    .
    Biến chứng thứ phát (biến chứng phát hiện sau khi thực hiện thủ thuật phá thai)Phá thai thất bại

    Thất bại trong phá thai rất hiếm gặp, chỉ chiếm dưới 0.5 % trong hút thai và 4 % trong phá thai bằng thuốc.
    Trường hợp này có thể do phá thai quá sớm (điều hòa kinh nguyệt hay phá thai bằng thuốc mà không có kiểm tra lại sau đó), do thiếu sót về kỹ thuật hoặc do dị dạng tử cung. Khi đó cần đặt ra việc hút lại nếu siêu âm thấy chính xác là vẫn còn thai

    .
    Sót nhau

    Gây rong huyết, tử cung không co hồi về mặt lâm sàng và siêu âm thấy các hình ảnh tăng âm. Các nghiên cứu ở Mỹ báo cáo tỷ lệ sót nhau là 0.75 %. Trường hợp này cũng cần được hút hoặc nạo thai lại theo chỉ dẫn của kết quả siêu âm.

    Nhiễm trùng

    Tần số các biến chứng nhiễm trùng vào khoảng từ 0.5 % đến 12% tuỳ vào kỹ thuật vô trùng. Các biến chứng nhiễm trùng này có thể được biểu hiện ở một phản ứng đơn giản là sốt, nhưng nó có thể là viêm nội mạc tử cung (tử cung nhạy cảm đau, tăng thân nhiệt) mà nó có thể lan tỏa ra các khu vực lân cận (viêm tấy dây chằng rộng, viêm phần phụ, viêm phúc mạc chậu) hoặc qua đường máu (nhiễm trùng huyết)

    .
    Ảnh hưởng đến vô sinh sau này

    Tần số vô sinh thứ phát do phá thai là rất khó đánh giá và nguy cơ cao ở phụ nữ có thai lần đầu.
    Vô sinh thường do nhiễm trùng sau phá thai có khả năng dẫn đến tắc nghẽn vòi trứng hai bên hoặc gây ra thai ngoài tử cung.Dính buồng tử cung thường gặp nhất sau nạo thai hơn là sau hút thai và chủ yếu là khi nạo lại trong trường hợp sót. Chẩn đoán bằng chụp X- quang buồng tử cung hoặc nội soi buồng tử cung.Tỷ lệ hở eo cổ tử cung liên quan đến việc sảy thai muộn về sau hoặc sinh non hãy còn chưa chính xác. Nguy cơ sảy thai tự nhiên muộn hoặc sinh non tăng trong nhóm đã có lần phá thai, chủ yếu ở phụ nữ có thai lần đầu và nếu đã nong cổ tử cung quá số 12.

    Đồng miễn dịch

    Đồng miễn dịch hóa thứ phát sau phá thai không còn được quan sát thấy kể từ khi người ta tiêm gammaglobuline một cách có hệ thống cho các phụ nữ Rhésus âm.
    Tỷ lệ đồng miễn dịch hóa Rhésus thứ phát sau phá thai khoảng 7% trong trường hợp không có huyết thanh dự phòng.

    Biến chứng tâm thần và tâm lý

    Hình thái và mức độ của các biến chứng này rất thay đổi. Thông thường là cảm giác tội lỗi hoặc hối tiếc sau phá thai. Các biểu hiện tâm thần nặng có thể được quan sát trong trường hợp đặc biệt các bệnh nhân lọan tâm thần (psychotique) và cần thiết có cách xử trí tâm thần dự phòng.

    Lần sửa cuối bởi Tuanmecsedec, ngày 03-08-2013 lúc 11:25.

  11. #31
    Admin diendanhiv.vn
    ( Sanh năm 1971 ) 17 năm trong chuyên môn tư vấn HIV miễn phí
    Tuanmecsedec's Avatar
    Ngày tham gia
    29-08-2007
    Giới tính
    Nam
    Đến từ
    Giấy chứng nhận tham vấn số : 041/UB AIDS - TV do ủy ban phòng chống HIV/AIDS TPHCM.
    Bài viết
    103,925
    Cảm ơn
    1,921
    Được cảm ơn: 21,170 lần
    Bài 2-Một số chú ý liên quan đến phá thai


    Mặc dù bác sỹ có trình độ chuyên môn và tay nghề cao, cơ sở y tế tin cậy đảm bảo điều kiện vô trùng và sức khoẻ của bạn đáp ứng được với việc phá thai, song phá thai luôn tiềm ẩn những nguy cơ tai biến, để lại những di chứng có thể rất nặng nề. Chính vì vậy, trong bất cứ trường hợp nào, phá thai chỉ được coi là biện pháp cuối cùng, ''chữa cháy'' mà thôi. Bạn cần quan tâm đến một số vấn đề liên quan đến phá thai sau đây.


    Làm thế nào để không phải phá thai?

    Phá thai chỉ là một biện pháp chữa cháy, các bạn đừng lặp lại, vì càng lặp lại, khả năng tai biến càng lớn. Do đó, nếu có quan hệ tình dục mà chưa sẵn sàng có thai, các bạn cần sử dụng biện pháp tránh thai.Vậy phải tránh thai như thế nào? Một số đôi bạn tình quyết tâm "nằm riêng", nhiều đôi còn thề không bao giờ "gần" nhau nữa. Thực tế cho thấy phương án này ít khả thi. Vì vậy, các bạn hãy chọn một biện pháp tránh thai đáng tin cậy và sử dụng nó thường xuyên, liên tục.Hút, nạo thai không gây ung thư như một số người lầm tưởng. Ung thư xuất hiện là do sự đột biến tế bào; hút nạo thai không gây ra sự đột biến đó.
    Những lưu ý trước khi phá thai

    Để đi đến quyết định phá thai không bao giờ là dễ dàng, phải không bạn? Các bạn cần trao đổi với nhau thật kỹ lưỡng và lường trước những "biến chứng" có thể xảy ra và khả năng đương đầu với chúng sau này. Và một điều rất quan trọng là trước khi đi hút, nạo thai, bạn cần xác định chắc chắn mình có thai hay không. Bạn hãy đi thử thai ở cơ sở y tế, hoặc tự thử bằng dụng cụ thử thai nhanh mua ở hiệu thuốc (phổ biến là que thử Quick Stick). Chậm kinh chưa chắc đã là có thai vì kinh nguyệt nhiều khi cũng dao động. Nếu chậm kinh, bạn nên thử cho chắc chắn, đừng vội vã hút ngay.

    Trên thực tế đã có một số bạn dù chậm kinh nhưng vẫn không muốn nghĩ là đã có thai, cứ ở nhà cầu trời là không phải, để đến khi rõ rồi thì thai đã lớn, không xử lý được nữa. Đối với những bạn có quan hệ tình dục nhưng không sử dụng một biện pháp tránh thai có hiệu quả cao, nếu thấy đã chậm kinh nguyệt một tuần thì nhất thiết nên thử thai.
    Nếu biết chắc mình có thai mà không thể sinh con, bạn hãy đến cơ sở y tế trong khoảng thời gian có thể để hút hoặc nạo. Để chắc chắn được hút (an toàn hơn nạo), bạn hãy đến cơ sở y tế khi chậm kinh chưa quá 4 tuần. Tuy nhiên, cũng không nên hút quá sớm, vì có thể trứng đã thụ tinh nhưng chưa vào làm tổ trong tử cung và sẽ phải hút lại. Tốt nhất là hút thai khi chậm kinh 2-3 tuần và nên đi siêu âm trước khi hút để đảm bảo là phôi đã vào đến tử cung.
    Nhiều bạn lo lắng không biết liệu việc hút, nạo thai có ảnh hưởng nhiều đến sức khoẻ và có hại về sau hay không. Cần phải nói rằng hút, nạo thai là tác động trực tiếp vào buồng tử cung, dĩ nhiên có nguy cơ gây chảy máu, nhiễm trùng, viêm phần phụ, một số ít trường hợp thủng tử cung hay dính thành tử cung, có thể ảnh hưởng đến sức khoẻ và khả năng sinh sản về sau. Vậy nhưng hút nạo thai nếu đúng kỹ thuật và đảm bảo vô trùng thì an toàn hơn mang thai và sinh đẻ. Nếu cần phải hút nạo thai, các bạn hãy đến một trong các địa chỉ an toàn và đừng quá lo lắng.

    Khi đến cơ sở y tế, các bạn cần chuẩn bị trước một khoản tiền viện phí và mang sẵn băng vệ sinh. Trước khi thực hiện phá thai, bạn nữ sẽ được bác sĩ khám để kiểm tra sức khoẻ và tình hình thai nghén. Bác sĩ có thể cho bạn uống thuốc hoặc tiêm thuốc giảm đau. Không như người ta nói chỉ đau như kiến cắn, phá thai thực sự gây đau, và nạo thai hay kovax thì gây đau hơn hút thai hay bỏ thai bằng thuốc. Song, đau nhiều hay ít một phần cũng là do tâm lý. Đã có nghiên cứu cho thấy rằng những phụ nữ lo lắng nhiều, sợ đau nhiều thường cảm thấy đau hơn người khác. Do đó điều quan trọng là bạn gái cần cố gắng thư giãn, loại bỏ nỗi sợ hãi. Việc này cũng qua nhanh thôi, bạn hãy tự tin, điều đó sẽ giúp bạn bớt đau.

    Những lưu ý sau khi phá thai

    Sau khi phá thai, bạn nữ nằm nghỉ tại cơ sở y tế một, hai tiếng để hồi sức và để theo dõi trước khi về. Bạn còn chảy máu, nhưng không nhiều hơn hành kinh. Cơ thể có thể mệt, bạn cần nghỉ ngơi và ăn uống bổ dưỡng. Bạn không phải kiêng thức này thức khác hay kiêng tắm gội, mà hãy coi đó chỉ là một lần hành kinh hơi nặng nề.

    Nếu muốn thử lại cho chắc chắn là không còn thai, bạn hãy đợi 2 tuần, bởi đến 2 tuần sau khi phá thai, cơ thể mới hết hóc môn HCG. Nếu gặp các hiện tượng chảy máu nặng, chảy máu kéo dài, âm đạo tiết nhiều dịch hôi, đau bụng, sốt, vô kinh ... thì hãy trở lại cơ sở y tế ngay để được kiểm tra. Ngay cả khi nếu không có hiện tượng gì bất thường, bạn cũng nên đi khám lại sau khi hút, nạo 2 tuần.

    Làm sao để tránh được tai biến sau khi nạo?

    Hãy đến khám lại ở bác sĩ phụ khoa theo đúng hướng dẫn để kiểm tra độ an toàn của tử cung cũng như để bác sĩ chỉ định cách phòng tránh viêm nhiễm và rối loạn nội tiết. Bạn cũng có thể xin ý kiến của bác sỹ về các biện pháp tránh thai khi đến khám lại.

    Trong vòng một tuần sau khi nạo, nên chú ý bồi dưỡng và chăm sóc sức khoẻ để tránh những biến chứng có thể xảy ra. Không nên hút thuốc, uống rượu. Hãy cố gắng tạo cho mình những nguồn động viên tốt.
    Quan hệ tình dục sau khi nạo hút thai
    Về tình dục, sau khi nạo, hút thai, bạn gái cần tránh quan hệ trong 2 đến 3 tuần, vì khi ấy cổ tử cung còn hơi mở, nếu có quan hệ tình dục sớm rất có thể gây viêm nhiễm khá trầm trọng và thậm chí gây xuất huyết. Hãy nhớ rằng, quá trình thụ thai có thể xảy ra ngay sau chu kỳ hành kinh đầu tiên sau khi nạo, do đó, sau khi nạo, hút thai, bạn cần sử dụng ngay các biện pháp tránh thai khi có quan hệ tình dục trở lại.
    Lần sửa cuối bởi Tuanmecsedec, ngày 03-08-2013 lúc 11:26.

  12. #32
    Admin diendanhiv.vn
    ( Sanh năm 1971 ) 17 năm trong chuyên môn tư vấn HIV miễn phí
    Tuanmecsedec's Avatar
    Ngày tham gia
    29-08-2007
    Giới tính
    Nam
    Đến từ
    Giấy chứng nhận tham vấn số : 041/UB AIDS - TV do ủy ban phòng chống HIV/AIDS TPHCM.
    Bài viết
    103,925
    Cảm ơn
    1,921
    Được cảm ơn: 21,170 lần
    Bài 3-Phá thai bằng thuốc

    Phá thai bằng thuốc đã được nghiên cứu và thử nghiệm ở nhiều nước. Hiện nay, một số nước đã chính thức cho phép sử dụng phương pháp phá thai này, trong đó có Việt Nam.



    Đã có trên 15 quốc gia chính thức chấp nhận việc chấm dứt thai kỳ bằng thuốc, nhất là sau khi hiệu quả của Mifepriston được chứng minh vào năm 1982. Trong 3 tháng đầu thai kỳ, các thủ thuật nạo hút sản khoa thường được dùng nhiều hơn, nhưng những thủ thuật này ít thành công trong những trường hợp thai dưới 7 tuần tuổi. Khi ấy việc dùng thuốc để chấm dứt thai kỳ tỏ ra an toàn hơn. Bài viết này đề cập đến một số hiểu biết hiện nay về việc chấm dứt thai kỳ bằng thuốc trong giai đoạn sớm của thai kỳ.

    1. Cơ chế tác động của thuốc phá thai


    Trứng sẽ kết hợp với tinh trùng tại vị trí 1/3 vòi trứng ngoài
    , sau 6 đến 10 ngày, trứng đã được thụ tinh sẽ di chuyển từ vòi trứng vào làm tổ trong buồng tử cung. Hiện tượng này cần đến tác động của progesteron để phiên giải các gen tham gia quá trình làm tổ. Progesteron cũng ức chế sự co thắt cơ trơn tử cung, làm giảm sự co bóp của cơ tử cung, tạo điều kiện cho hợp tử làm tổ và phát triển trong buồng tử cung. Các thuốc được dùng để chấm dứt thai kỳ tác động bằng cách ức chế tổng hợp progesteron, gây tăng co cơ tử cung, do đó cản trở sự làm tổ và phát triển của hợp tử.


    Ức chế tổng hợp progesteron:


    Các phân tử steroid được thay đổi cấu trúc, như epostan, và các chất ức chế cạnh tranh với enzym 3D-hydroxysteroid dehydrogenase ở buồng trứng và nhau thai, như trilostan, có tác dụng ức chế tổng hợp progesteron từ tiền chất của nó là pregnenolon.

    Gây co cơ tử cung:Prostaglandin và Oxytocin kích thích co thắt tử cung bằng cách gắn với thụ thể đặc hiệu trên bề mặt tế bào cơ trơn tử cung. Tác dụng này làm lưới nội bào tương tăng sản xuất Calci, do đó làm tử cung co thắt.

    Ðối kháng tác dụng của Progesteron:

    Chất đối kháng Progesteron (kháng-progestin) được phát triển đầu tiên là Mifepriston, còn được gọi là RU 486 hoặc RU 38486, có ái tính kết gắn với thụ thể Progesteron mạnh gấp 5 lần so với progesteron. Hợp chất này ức chế sự phiên giải, làm giảm số lượng gen lệ thuộc Progesteron, gây hoại tử màng rụng và bong phôi. Kháng-progestin còn tác động trên mạch máu nội mạc làm hỏng phôi. Những chất này làm tăng co tử cung bằng cách tăng tính kích thích của tế bào cơ trơn tử cung, và còn làm mở cổ tử cung.


    Ức chế sự phát triển dưỡng bào (tế bào sinh trưởng):

    Methotrexat, chất đối kháng Acid Folic, ngăn chặn sự tổng hợp DNA. Các tế bào đang tăng sinh đều nhạy cảm với Methotrexat, vốn thường dùng để trị ung thư nhau và thai ngoài tử cung.


    2. Những điều cần lưu ý khi sử dụng thuốc phá thai


    Chấm dứt thai kỳ bằng thuốc chỉ được xem là thành công khi tống xuất được phôi thai ra ngoài buồng tử cung mà không cần can thiệp ngoại khoa. Phương pháp này không được dùng sau tuần 9 của thai kỳ vì dễ thất bại và gây xuất huyết tử cung. Do đó việc xác định tuổi thai qua siêu âm rất cần thiết. Ngoài ra, với phương pháp này, sản phụ phải được các thầy thuốc chuyên khoa theo dõi chặt chẽ hơn so với phương pháp nạo phá thai bằng thủ thuật sản khoa.


    3. Một số loại thuốc phá thai


    Trên thế giới hiện nay có 4 nhóm thuốc phá thai, riêng tại Việt Nam nhóm mifepristone và misoprostol thường được sử dụng.


    EPOSTAN


    Có thể dùng đơn thuần hoặc phối hợp với Prostaglandin E2 (đặt âm đạo) đối với các trường hợp thai dưới 8 tuần. Liều dùng là 200 mg mỗi 6-8 giờ trong 7 ngày. Tỉ lệ thành công chỉ 84% nhưng gây buồn nôn ở 86% số sản phụ. Vì thế, Epostan không được FDA (Food and Drug Administration – Cơ quan quản lý thực, dược phẩm Mỹ) công nhận sử dụng trong chỉ định này.


    PROSTAGLANDIN


    Hiện nay chỉ sử dụng các hợp chất prostaglandin E2 tổng hợp như Misoprostol và Gemeprost. Misoprostol tương đối rẻ, có thể bảo quản ở nhiệt độ phòng, và hiện được dùng tại nhiều nước để đề phòng và điều trị loét dạ dày do thuốc kháng viêm không-steroid. Trái lại, Gemeprost chỉ có dạng thuốc đặt âm đạo, đắt tiền, cần bảo quản trong tủ lạnh. Thuốc này không được chấp nhận sử dụng tại Hoa Kỳ.

    Hiệu quả: Thuốc dùng đường uống kém hiệu quả hơn thuốc đặt âm đạo.

    Những nghiên cứu với Misoprostol khi uống liều 800-2400 mg cho thấy kết quả gây sẩy thai hoàn toàn đạt từ 22% đến 94%, tỉ lệ thành công không lệ thuộc liều dùng và tuổi thai. Làm ướt viên nén Misoprostol trước khi đặt vào âm đạo cũng không cải thiện được kết quả.

    Gemeprost đặt âm đạo với liều 1 mg (nếu cần cứ 3 giờ có thể đặt thêm một liều, tối đa là 5 liều) cho kết quả thành công ở 97% số sản phụ có thai dưới 56 ngày. Nếu dùng liều 1 mg đặt âm đạo 6 giờ/ một liều (tối đa 3 liều) thì tỉ lệ thành công chỉ 87%.

    Tác dụng phụ: Prostaglandin có nhiều tác dụng phụ (đau bụng, chóng mặt, buồn nôn, ói mửa, tiêu chảy, rét run và nổi mẩn). Thường phải giảm đau bằng thuốc giảm đau họ á phiện (53% số khách hàng dùng Gemeprost tổng liều 5 mg phải dùng thuốc giảm đau, so với 16% khi dùng tổng liều 3 mg), nên sản phụ cần ở lại bệnh viện để theo dõi. Khi dùng Misoprostol, thời gian ra huyết trung bình là 11 ngày, so với 14 ngày khi dùng

    Gemeprost.


    Những trường hợp dùng Misoprostol thất bại có thể gây các dị tật bẩm sinh cho thai (thiếu da đầu hoặc xương sọ, liệt các dây thần kinh sọ, hoặc dị tật chi dưới) mà nguyên nhân có thể do tăng áp suất buồng tử cung (vì co cơ tử cung) hoặc co mạch. Vì có nhiều tác dụng phụ nên Prostaglandin thường được dùng liều thấp và phối hợp với Mifepriston hoặc Methotrexat.


    METHOTREXAT + PROSTAGLANDIN


    Phối hợp hai thuốc này rất có hiệu quả trong việc chấm dứt thai kỳ. Methotrexat thường được tiêm bắp với liều 50 mg/m2 diện tích da. Dùng đường uống (liều duy nhất 25 mg hoặc 50 mg) cũng có hiệu quả. Sau đó 3-7 ngày, đặt âm đạo 800 mg Misoprostol.

    Hiệu quả: Nếu tuổi thai dưới 8 tuần, dùng phối hợp Methotrexat và Misoprostol có tỉ lệ thành công từ 84-97%, tính từ khi dùng Methotrexat cho đến 24 giờ sau khi đặt Misoprostol hoặc muộn hơn. Khoảng 12-35% số sản phụ bị sẩy thai muộn 20-30 ngày sau khi dùng Misoprostol.
    Tác dụng phụ: Xuất độ các tác dụng phụ khi dùng phác đồ này thay đổi tùy nghiên cứu. Thường gặp là các triệu chứng sốt và rét run (8-60%), tiêu chảy (3-52%), buồn nôn (2-25%). Khoảng 40-90% số sản phụ báo cáo phải cần đến thuốc giảm đau. Ngoài ra, có 5% số trường hợp bị viêm loét miệng do Methotrexat.

    Thời gian trung bình ra huyết âm đạo từ 10-17 ngày. Trong một nghiên cứu (Wiebe, 1997), có 4% số sản phụ phải can thiệp ngoại khoa vì xuất huyết nhiều. Metho-trexat có thể gây dị dạng trên thai (chi ngắn, thiếu ngón) và cần theo dõi kỹ bằng siêu âm sau khi dùng thuốc vì có 1-10% số thai vẫn phát triển.


    KHÁNG PROGESTIN + PROSTAGLANDIN


    Kháng Progestin được nghiên cứu nhiều nhất là Mifepriston (200-600mg). Prostaglandin thường được dùng sau liều Mifepriston 48 giờ, với Gemeprost (1 mg đặt âm đạo) hoặc với Misoprostol (uống liều duy nhất 400-600 mg hoặc dùng liều đầu 400 mg rồi dùng thêm 200 mg sau 2-3 giờ nếu chứa sẩy thai; hoặc đặt âm đạo 800 mg). Một nghiên cứu (Baird và cs., 1995) cho thấy tỉ lệ thai tiếp tục phát triển cao hơn khi uống Misoprostol so với Gemeprost đặt âm đạo.


    Hiệu quả


    Đối với thai dưới 7 tuần, tỉ lệ thành công khi dùng phối hợp Mifepriston và Prostaglandin là 92-98%.

    Ðối với thai từ 7-9 tuần, tỉ lệ thành công khi phối hợp với Misoprostol dạng uống (77-95%) thấp hơn so với khi phối hợp với Gemeprost hoặc Misoprostol đặt âm đạo (94- 97%).

    Sảy thai xảy ra trong vòng 4 giờ sau khi dùng Misoprostol được ghi nhận ở 44-77% số sản phụ.

    Có hai nghiên cứu dùng Mifepriston + Misoprostol dạng uống cho thấy tỷ lệ thai tiếp tục phát triển tăng dần theo tuổi thai (Spitz và cs., 1998; và Aubeny và cs., 1995), nhưng không thấy sự kết hợp đó khi dùng Mifepriston + Gemeprost.


    Tác dụng phụ



    Nghiêm trọng nhất là ra huyết âm đạo nhiều, nhưng chỉ có 0,1% số trường hợp cần truyền máu. Lượng máu mất từ 84-101 ml, so với 53 ml khi dùng thủ thuật sản khoa. Thời gian ra huyết khoảng 8-17 ngày. Dùng methotrexat hoặc thuốc ngừa thai không có hiệu quả rút ngắn thời gian ra huyết.

    Tác dụng phụ hay gặp nhất là đau bụng và gò tử cung, nhiều trường hợp phải dùng một hoặc nhiều thuốc giảm đau. Các tác dụng phụ khác ở đường tiêu hóa do Prostaglandin là buồn nôn (34-72%), ói mửa (12-41%), tiêu chảy (3-26%). Hiếm gặp hơn là nhức đầu, chóng mặt, đau lưng, mệt mỏi. Tỷ lệ viêm nội mạc tử cung thấp hơn khi phá thai bằng thủ thuật sản khoa. Misoprostol có thể đi kèm với các dị tật bẩm sinh ở người như đã nêu ở trên.

    Chống chỉ định


    Mifepriston và Prostaglandin bị chống chỉ định cho những sản phụ phải dùng liệu pháp corticoid dài ngày (hen suyễn, suy thượng thận). Phải thận trọng khi dùng những thuốc này cho bệnh nhân tiểu đường có biến chứng, thiếu máu nặng, hoặc rối loạn đông máu và bệnh nhân dùng thuốc chống đông máu. Sulfoproston (một loại prostaglandin) bị chống chỉ định cho phụ nữ trên 35 tuổi bị béo phì, nghiện thuốc lá, hoặc có các yếu tố nguy cơ tim mạch khác vì thuốc dễ gây suy tim trên những đối tượng này. Tuy vậy, đối với mifepriston và gemeprost thì không chống chỉ định cho những đối tượng đó. Khi dùng Methotrexat cần tránh dùng thuốc có chứa Folat.


    Phương pháp phá thai bằng thuốc đã được thử nghiệm 6 lần tại Việt Nam trên 800 phụ nữ mang thai dưới 7 tuần; tỷ lệ thành công là 93%. Các thuốc được sử dụng là Mifepristone (còn gọi là RU-486) và Misoprostol do Pháp sản xuất. Các thuốc này thường gây các tác dụng phụ như buồn nôn, đau bụng, nhưng thời gian xuất hiện không kéo dài.


    Hiện nay, phá thai bằng thuốc đã được sử dụng ở nước ta tại các cơ sở y tế tuyến tỉnh và trung ương. Người được phép thực hiện là các bác sĩ sản phụ khoa được huấn luyện về phá thai bằng thuốc. Khách hàng không được tự áp dụng các phương pháp này mà phải có sự chỉ định và theo dõi chặt chẽ của bác sĩ.
    GiaoDucGioiTinhOnline
    Lần sửa cuối bởi Tuanmecsedec, ngày 03-08-2013 lúc 11:28.

  13. #33
    Admin diendanhiv.vn
    ( Sanh năm 1971 ) 17 năm trong chuyên môn tư vấn HIV miễn phí
    Tuanmecsedec's Avatar
    Ngày tham gia
    29-08-2007
    Giới tính
    Nam
    Đến từ
    Giấy chứng nhận tham vấn số : 041/UB AIDS - TV do ủy ban phòng chống HIV/AIDS TPHCM.
    Bài viết
    103,925
    Cảm ơn
    1,921
    Được cảm ơn: 21,170 lần
    Bài 4- Các biện pháp phá thai (Hút ,Nạo thai, Kovax )

    Các biện pháp phá thai là các thủ thuật kết thúc quá trình thai nghén trong thời gian đầu của thai kỳ khi thai chưa quá 12 tuần tuổi (nạo, hút thai) hoặc khi thai đã lớn (kovax) .


    Hút thai

    Hiện nay, so với nạo thai hoặc kovax, hút thai vẫn được coi là biện pháp phá thai an toàn hơn. Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, do có nhiều kỹ thuật phát hiện thai sớm và người ta cũng hiểu được sự nguy hiểm của việc nạo, phá thai lớn nên số người phát hiện thai sớm và đi hút nhiều hơn nạo.
    Thủ thuật hút:
    Bác sĩ đưa một ống nhỏ bằng nhựa qua cổ tử cung vào trong tử cung (ống này nối với bơm điện hoặc bơm tay rồi hút phôi thai ra). Thủ thuật được thực hiện nhẹ nhàng, ít đau đớn và ít biến chứng. Việc hút thai cần được thực hiện ở các trung tâm chăm sóc sức khoẻ bà mẹ và trẻ em, phòng khám sản phụ khoa, trạm y tế.

    Hiện nay có hai loại bơm hút thai: Bơm tay và bơm điện:


    - Hút thai bằng bơm tay cũng có hai loại: Bơm tay một van và bơm tay hai van. Với hút thai bằng bơm tay một van có thể được thực hiện trong trường hợp tuổi thai dưới 8 tuần tuổi (hoặc bạn gái chậm kinh chưa quá 4 tuần), còn hút thai bằng bơm tay hai van được thực hiện trong các trường hợp tuổi thai dưới 12 tuần (hoặc bạn gái chậm kinh chưa quá 8 tuần).
    - Hút thai bằng bơm điện được thực hiện trong các trường hợp giống như hút thai bằng bơm tay hai van (khi tuổi thai dưới 12 tuần hoặc bạn gái chậm kinh chưa quá 8 tuần).
    Nạo thai

    Nạo thai là thủ thuật phá thai được thực hiện với những trường hợp tuổi thai dưới 12 tuần hoặc bạn gái chậm kinh chưa quá 8 tuần. Bác sĩ nong rộng cổ tử cung rồi đưa vào trong tử cung một dụng cụ giống như cái thìa để lấy ra phôi thai cùng rau thai. Nạo thai thường gây đau hơn, tỷ lệ biến chứng cao hơn so với hút. Nạo thai đòi hỏi cán bộ y tế có kỹ thuật. Việc nạo thai cần được thực hiện ở các bệnh viện.
    Hiện nay và trong tương lai biện pháp này sẽ được hạn chế sử dụng để tăng độ an toàn cho bạn gái.

    Phá thai bằng kovax

    Bên cạnh những phương pháp dành cho việc nạo phá thai sớm này, bạn còn có thể nghe đến việc nạo phá thai muộn (đối với thai từ 4-5 tháng) gọi là phương pháp phá thai kovax. Trường hợp này bác sỹ sẽ tiêm truyền chất oxytocin (thường được gọi là thuốc giúp đẻ nhanh) để kích thích co bóp tử cung và chuyển dạ để đưa thai và rau thai ra ngoài. Kỹ thuật này chỉ tiến hành với các trường hợp đặc biệt vì nó có thể đưa đến nhiều tai biến nguy hiểm.

    Kỹ thuật này cần được thực hiện ở bệnh viện và theo chỉ định của bác sĩ.
    Lần sửa cuối bởi Tuanmecsedec, ngày 03-08-2013 lúc 11:29.

  14. #34
    Admin diendanhiv.vn
    ( Sanh năm 1971 ) 17 năm trong chuyên môn tư vấn HIV miễn phí
    Tuanmecsedec's Avatar
    Ngày tham gia
    29-08-2007
    Giới tính
    Nam
    Đến từ
    Giấy chứng nhận tham vấn số : 041/UB AIDS - TV do ủy ban phòng chống HIV/AIDS TPHCM.
    Bài viết
    103,925
    Cảm ơn
    1,921
    Được cảm ơn: 21,170 lần
    Phần VI - Bệnh nhiễm khuẩn lây truyền qua đường tình dục (STIs)

    Bệnh lây truyền qua đường tình dục (STIs) là tình trạng nhiễm khuẩn hay nhiễm trùng do các tác nhân gây bệnh và truyền từ người này sang người khác qua đường tình dục. Việc phòng tránh STIs là trách nhiệm của mỗi người cũng như của cộng đồng để bảo vệ chính bản thân mỗi người và bảo vệ sự phát triển của xã hội.


    Đường lây truyền của STIs

    Ngay từ tên gọi, chúng ta đã có thể biết chính xác đường lây chủ yếu của các bệnh này, đó là thông qua quan hệ tình dục, ở cả ba hình thức:Quan hệ tình dục đường âm đạo: đưa dương vật vào âm đạoQuan hệ tình dục đường miệng: đưa dương vật vào miệng hoặc dùng miệng để mút bộ phận sinh dục
    Quan hệ tình dục đường hậu môn:
    đưa dương vật vào hậu môn
    Ngoài ra, một số bệnh lây qua đường tình dục còn có thể truyền từ người này sang người khác thông qua một số đường khác như: từ mẹ truyền sang con, đường máu….T
    ác nhân gây ra các bệnh lây truyền qua đường tình dục bao gồm cả ba nhóm: vi rút, vi khuẩn và ký sinh trùng.
    Hiện nay, người ta đã tìm thấy khoảng hơn 20 loại bệnh lây qua đường tình dục, như: HIV/AIDS, lậu, giang mai, sùi mào gà, mụn rộp sinh dục, hạ cam, trùng roi âm đạo, nhiễm nấm sinh dục, chlamydia…
    Phòng tránh STIs như thế nào là hiệu quả?
    Việc hạn chế các hành vi nguy cơ có thể giúp bạn phòng tránh được các bệnh lây truyền qua đường tình dục. Cụ thể:- Hiểu được tầm quan trọng của việc phòng tránh và điều trị các nhiễm khuẩn lây truyền qua đường tình dục.- Luôn luôn sử dụng bao cao su khi quan hệ tình dục, tránh các hoạt động tình dục gây chấn thương như giao hợp đường hậu môn…- Quan hệ chung thuỷ, một bạn tình, không quan hệ tình dục với gái mại dâm, với nhiều bạn tình hoặc với bạn tình đang mắc STIs.- Tránh quan hệ tình dục khi đang mắc STIs.- Phát hiện và điều trị bệnh sớm, triệt để. Khuyến khích bạn tình cùng điều trị.Làm gì khi nghi ngờ mình hoặc bạn tình mắc STIs?
    Khoảng một nửa số người nhiễm STIs không có triệu chứng gì hoặc có triệu chứng không rõ ràng, có thể tự "biến mất" (nhưng không có nghĩa là khỏi bệnh). Chính vì vậy, nếu bạn hoặc bạn tình có bệnh ở cơ quan sinh dục, nếu đã có quan hệ tình dục với một người mà bạn không biết chắc là có bệnh hay không, hoặc nếu cơ quan sinh dục của bạn hoặc bạn tình có biểu hiện khác thường… thì bạn nên nghi ngờ là mắc bệnh.

    Đặc biệt là nếu bạn thấy có những dấu hiệu bất thường sau đây:
    - Dương vật hay âm đạo có tiết dịch bất thường- Cơ quan sinh dục ngứa, đau, rát, đỏ, có các nốt, các vết loét- Tiểu đau hoặc rát, hoặc tiểu nhiều hơn bình thườngTrường hợp này bạn nên đi khám chuyên khoa da liễu tại các bệnh viện đa khoa Tỉnh/ Thành phố hoặc Viện da liễu. Đây là những cơ sở y tế có điều kiện xét nghiệm tốt, cán bộ y tế có trình độ, do đó việc chẩn đoán và điều trị bệnh chính xác. Bạn tuyệt đối không nên tự ý mua thuốc về điều trị lấy, vì có thể triệu chứng giống nhau nhưng không có nghĩa là mắc cùng một bệnh, do đó nếu không dùng thuốc đúng bệnh có thể nặng hơn hoặc dẫn đến hiện tượng "nhờn thuốc", khiến cho bệnh trở nên không chữa được. Khi được bác sỹ chẩn đoán và điều trị, bạn cũng cần tuyệt đối tuân thủ theo đúng chỉ dẫn của bác sỹ, dùng đúng liều, đúng thời gian và đi khám lại theo đúng hẹn.
    Đồng thời, một trong những yếu tố giúp cho việc điều trị các bệnh STIs hiệu quả là điều trị cả bạn tình. Do đó, việc trao đổi và khuyến khích bạn tình tham gia khám và điều trị là rất cần thiết, tránh để tình trạng bệnh lây đi lây lại, khó chữa.
    Lần sửa cuối bởi Tuanmecsedec, ngày 03-08-2013 lúc 11:30.

  15. #35
    Admin diendanhiv.vn
    ( Sanh năm 1971 ) 17 năm trong chuyên môn tư vấn HIV miễn phí
    Tuanmecsedec's Avatar
    Ngày tham gia
    29-08-2007
    Giới tính
    Nam
    Đến từ
    Giấy chứng nhận tham vấn số : 041/UB AIDS - TV do ủy ban phòng chống HIV/AIDS TPHCM.
    Bài viết
    103,925
    Cảm ơn
    1,921
    Được cảm ơn: 21,170 lần
    Bài 1- Bệnh Lậu

    Bệnh lậu là một trong những bệnh lây truyền qua đường tình dục được biết đến từ xưa. Đây là một bệnh nhiễm trùng, do lậu cầu khuẩn ''Neisseria gonorrhoeae'' gây nên.


    Bệnh lậu lây truyền như thế nào?

    Bệnh lậu có nguyên nhân là do vi khuẩn gây ra. Vi khuẩn gây bệnh lậu không thể sống bên ngoài cơ thể quá vài phút, cũng như không thể sống trên bề mặt da của bàn tay, cánh tay, hay chân. Vì thế bệnh lậu không lây qua những hình thức giao tiếp thông thường như bắt tay, ôm hôn … Vi khuẩn lậu thường được tìm thấy ở âm đạo và đặc biệt hơn nữa là ở cổ tử cung.
    Bệnh lậu lây truyền trong khi giao hợp không được bảo vệ, theo mọi hình thức (âm đạo, hậu môn, miệng). Ngoài ra, còn lây truyền từ mẹ sang con khi thai sổ qua ống đẻ.

    Bệnh lậu biểu hiện như thế nào?


    Nam giới
    :
    Thời gian ủ bệnh khoảng 2-7 ngày.

    Chảy mủ niệu đạo: Nhiều, đặc, sánh, màu vàng nhạt, hoặc trắng, tái diễn nhanh.
    - Đái buốt đầu bãi tiểu.
    - Phù nề bao quy đầu.
    - Sưng đau mào tinh hoàn.



    Nữ giới
    :
    Thời gian ủ bệnh từ 3-10 ngày, phần lớn không có biểu hiện gì, một số ít trường hợp cấp tính thì có biểu hiện như sau:

    Khí hư: Nhiều, đặc, sánh, màu xanh hoặc trắng.
    - Âm đạo: Đỏ, lổn nhổn nhiều hạt sùi. Không đau hoặc chỉ đau ít.
    - Chảy mủ trắng hoặc vàng nhạt từ hậu môn.
    - Đái buốt, đái dắt


    Bệnh lậu tiến triển như thế nào?


    Bệnh lậu tiến triển chậm, âm ỉ, thỉnh thoảng có các đợt cấp thì mới có biểu hiện như trên đã mô tả. Các biểu hiện có thể tự mất đi mà không cần điều trị gì, sau một thời gian lại tái diễn. Trong thời gian bệnh không có biểu hiện vẫn có thể lây bệnh cho bạn tình.

    Những biến chứng của bệnh lậu
    Biến chứng của bệnh lậu chủ yếu là vô sinh, chửa ngoài tử cung, nhiễm khuẩn huyết, viêm màng não, tăng nguy cơ nhiễm HIV/AIDS….

    Bệnh lậu điều trị như thế nào?


    Với những trường hợp bệnh lậu chưa có biến chứng, điều trị chủ yếu là dùng kháng sinh. Hiện nay thường dùng kháng sinh nhóm Cephalosporin thế hệ 3 (ceftriaxone, cefotaxime), hoặc Ciprofloxacine, Spectinomycine. Các thuốc trên được dùng đúng với một liều duy nhất tiêm hoặc uống.

    Với những bệnh lậu có biến chứng (viêm mào tinh hoàn, viêm vòi trứng,…) việc điều trị phức tạp hơn, các kháng sinh được dùng với liều cao và kéo dài (2-4 tuần)

    Nhiễm lậu cầu thường kèm theo nhiễm Chlamydia trachomatis do vậy cần kết hợp điều trị đồng thời cả lậu và Chlamydia trachomatis.

    Điều quan trọng trong điều trị lậu nói riêng và các bệnh lây truyền qua đường tình dục nói chung là phải tiến hành điều trị cả bạn tình.

    Lần sửa cuối bởi Tuanmecsedec, ngày 03-08-2013 lúc 11:31.

  16. #36
    Admin diendanhiv.vn
    ( Sanh năm 1971 ) 17 năm trong chuyên môn tư vấn HIV miễn phí
    Tuanmecsedec's Avatar
    Ngày tham gia
    29-08-2007
    Giới tính
    Nam
    Đến từ
    Giấy chứng nhận tham vấn số : 041/UB AIDS - TV do ủy ban phòng chống HIV/AIDS TPHCM.
    Bài viết
    103,925
    Cảm ơn
    1,921
    Được cảm ơn: 21,170 lần
    Bài 2- Bệnh giang mai

    Giang mai là bệnh xuất hiện từ thời thượng cổ, lây truyền chủ yếu qua đường tình dục. Đây là một bệnh nhiễm khuẩn do xoắn khuẩn Treponema pallidum gây nên.


    Bệnh Giang mai cũng là một bệnh do vi khuẩn gây ra. Xoắn khuẩn giang mai (T. pallidum) có sức đề kháng rất yếu với môi trường ngoại cảnh, chúng chỉ sống được không quá vài giờ. Ở môi trường khô, chúng chết nhanh chóng, ngược lại trong môi trường ẩm ướt, chúng có thể sống được vài chục phút. Xà phòng có thể tiêu diệt được xoắn khuẩn giang mai trong vài phút.
    Bệnh giang mai lây truyền như thế nào?
    Xoắn khuẩn giang mai xâm nhập trực tiếp vào cơ thể khi giao hợp không được bảo vệ (đường âm đạo, hậu môn hay miệng), qua các vết xước trên da, niêm mạc khi tiếp xúc với dịch tiết từ tổn thương giang mai. Xoắn khuẩn giang mai còn có thể lây truyền từ mẹ sang con trong thời kỳ bào thai từ tháng thứ 4 trở đi, do xoắn khuẩn xâm nhập máu thai nhi qua dây rốn.
    Bệnh giang mai có biểu hiện như thế nào?
    Các biểu hiện của bệnh phụ thuộc vào thời kỳ của bệnh.
    Thời gian ủ bệnh khoảng 3-4 tuần, sớm nhất là 10 ngày, muộn nhất là 90 ngày





    Săng giang mai: Là một vết trợt rất nông, hình tròn hoặc bầu dục, màu thịt tươi, không có mủ, không có vẩy, không đau rát (nếu không bị bội nhiễm).
    Săng có thể ở quy đầu, rãnh quy đầu, thân dương vật, môi lớn, môi bé, âm vật, âm đạo, nếp hậu môn, họng, lưỡi, đôi khi ở trán. Đó là những nơi mà xoắn khuẩn đã xâm nhập.
    - Sưng hạch bẹn: Hạch bẹn sưng lên thành từng chùm, trong đó có một hạch to hơn các hạch khác, không đau. Xuất hiện sau săng khoảng vài ngày, cũng tự mất đi theo săng.
    - Sẩn giang mai: Là những sẩn gồ cao trên mặt da, hình tròn hoặc bầu dục, rắn chắc, màu hồng đỏ, có khi tập trung thành đám, không gây đau. Sẩn giang mai thường xuất hiện ở rìa tóc, trán, gáy, lòng bàn tay, lòng bàn chân, kẽ mông, quanh hậu môn, âm hộ.
    - Viêm hạch lan tỏa: các hạch vùng nách, bẹn, sau tai, dưới hàm trở nên chắc, cứng, không đau, di động ngay dưới da.



    - Gôm giang mai: là những khối u sùi, có thể ở da, niêm mạc, cơ, xương. Ban đầu gôm rất chắc, cứng sau đó mềm dần và loét, khi loét chảy ra mủ sánh, đặc lẫn máu, không đau. Khi mủ chảy hết sẽ để lại một ổ loét tròn, đáy cứng, ổ loét này dần sẹo hóa.

    - Củ giang mai: là những tổn thương gồ lên mặt da (cao hơn sẩn), màu hồng đỏ, đường kính khoảng 1 cm, không đau. Thường tập trung thành từng đám, xếp theo hình nhẫn, hình cung hoặc vòng vèo. Củ giang mai không bao giờ tái phát trên sẹo cũ.
    Tất cả các biểu hiện trên đều có thể tự mất đi mà không cần điều trị gì cả, sau đó tái diễn với mức độ nặng hơn.
    Ngoài những biểu hiện trên, giang mai còn có những biểu hiện khác như tổn thương van tim, cơ tim, tủy sống (liệt), não (rối loạn tâm thần).
    Bệnh giang mai tiến triển như thế nào?
    Nếu không điều trị, giang mai tiến triển qua 3 thời kỳ.
    - Thời kỳ đầu: kéo dài khoảng 6-8 tuần, tổn thương mới chỉ khu trú tại những vị trí mà xoắn khuẩn xâm nhập. Các biểu hiện trong giai đoạn này là săng, viêm hạch bẹn, chúng có thể tự mất đi mà không cần điều trị gì cả.
    - Thời kỳ thứ hai: kéo dài khoảng 2 năm, tổn thương ở da, niêm mạc lan tỏa khắp cơ thể do xoắn khuẩn đã vào máu và phát tán. Các tổn thương thời kỳ này chủ yếu là sẩn, viêm hạch lan tỏa, phát ban, chúng cũng có thể tự mất đi mà không cần điều trị gì, sau đó tái phát với mức độ nặng hơn.
    - Thời kỳ thứ ba: thường bắt đầu vào năm thứ ba của bệnh, kéo dài hàng chục năm, tổn thương các cơ quan, phủ tạng (gan, tim, thần kinh, cơ, xương…). Giai đoạn này người bệnh ít có khả năng lây nhiễm cho bạn tình vì xoắn khuẩn đã xâm nhập và khu trú vào phủ tạng, không còn ở da, niêm mạc nữa. Tổn thương giai đoạn này là gôm, củ giang mai, tim mạch, thần kinh, gan. Hiện nay rất hiếm gặp giai đoạn này do được chẩn đoán và điều trị sớm.
    Bệnh giang mai có những biến chứng gì?
    Giang mai có rất nhiều biến chứng, chúng có thể gây nguy hiểm cho tính mạng người bệnh. Có thể nói rằng “giang mai là một diễn viên biệt tài”, có thể đóng vai mang đặc điểm của hơn chục bệnh nội, ngoại khoa khác nhau, đơn giản vì xoắn khuẩn giang mai có thể gây tổn thương tất cả các cơ quan trong cơ thể, từ da, niêm mạc, mắt đến các nội tạng như gan, tim mạch, thần kinh. Một số biến chứng nguy hiểm là viêm động mạch chủ, phình động mạch chủ, bại liệt toàn thân, rối loạn tâm thần, viêm gan. Giang mai bẩm sinh có thể gây tử vong cho thai nhi hoặc dị dạng thai sau khi sinh.
    Bệnh giang mai điều trị như thế nào?
    Điều trị bệnh giang mai đã có kết quả rất khả quan, tránh được nhiều biến chứng nguy hiểm của bệnh. Việc lựa chọn phác đồ điều trị tùy thuộc vào giai đoạn của bệnh, những thuốc điều trị hiện được Bộ y tế khuyến cáo sử dụng là Penicilline G, Tetracycline, Doxycicline

    Lần sửa cuối bởi Tuanmecsedec, ngày 03-08-2013 lúc 11:32.

  17. #37
    Admin diendanhiv.vn
    ( Sanh năm 1971 ) 17 năm trong chuyên môn tư vấn HIV miễn phí
    Tuanmecsedec's Avatar
    Ngày tham gia
    29-08-2007
    Giới tính
    Nam
    Đến từ
    Giấy chứng nhận tham vấn số : 041/UB AIDS - TV do ủy ban phòng chống HIV/AIDS TPHCM.
    Bài viết
    103,925
    Cảm ơn
    1,921
    Được cảm ơn: 21,170 lần
    Bài 3-Nhiễm Chlamydia

    Nhiễm Chlamydia


    Nhiễm Chlamydia là tình trạng nhiễm khuẩn do Chlamydia tracomatis gây ra, có thể ở cơ quan sinh dục hoặc ở hệ thống cơ quan khác.


    Giống Chlamydia có nhiều loại nhưng chúng ta thường gặp là Chlamydia trachomatis. Ch.trachomatis còn có thể gây bệnh ở trực tràng, kết mạc mắt, gan, mô mềm.
    Chlamydia là vi khuẩn ký sinh bắt buộc trong tế bào do vậy chúng không thể sống trong môi trường tự nhiên được.
    Theo CDC - Trung tâm kiểm soát dịch bệnh Hoa Kỳ - trên thế giới có khoảng 15 triệu người nhiễm Chlamydia, và số người mới nhiễm hàng năm khoảng 300 000 người. Trong thực tế nhiều trường hợp không được chẩn đoán, do vậy tỷ lệ ước lượng khoảng 5-10% dân số trong độ tuổi hoạt động tình dục. Ở Việt Nam chưa có số liệu thống kê chính xác về vấn đề này.
    Chlamydia trachomatis lây truyền như thế nào?
    Cách thức lây truyền Ch.trachomatis tương tự như bệnh lậu, tức là chỉ lây truyền qua giao hợp không bảo vệ, theo mọi hình thức (âm đạo, hậu môn, miệng). Ngoài ra chúng còn có thể lây truyền từ mẹ sang thai khi thai sổ đẻ.
    Nhiễm Chlamidia có biểu hiện như thế nào?
    Có ít nhất 50% trường hợp không có biểu hiện gì đặc biệt, dễ bỏ qua. Thời gian ủ bệnh khoảng 5-15 ngày.
    Ở nam giới, các biểu hiện có thể gặp là tiết dịch niệu đạo màu trắng, trong, không mùi, số lượng ít kèm theo có đái dắt, ngứa niệu đạo. Có thể gặp viêm tinh hoàn, viêm mào tinh hoàn.
    Ở nữ giới, biểu hiện có thể gặp là rối loạn kinh nguyệt, khí hư bẩn trắng đục, không mùi. Ngoài ra có thể kèm đau bụng dưới rốn, đau lưng, sưng đau hạch bẹn rồi mủ hóa và vỡ.
    Chlamydia còn là nguyên nhân gây bệnh u hạch bạch huyết hoa liễu, biểu hiện là phù nề các bộ phận sinh dục ngoài, sưng đau hạch bẹn.
    Chlamydia tiến triển như thế nào?
    Như đã nêu trên, nhiễm Chlamydia tiến triển từ từ, ít nhất 50% không có biểu hiện gì. Bệnh tiến triển mạn tính, nhưng luôn có khả năng lây nhiễm cho bạn tình. Nếu không được điều trị đúng thì sẽ không bao giờ khỏi được.
    Chlamydia có biến chứng gì?
    Ở nam giới, biến chứng chủ yếu là viêm tinh hoàn và viêm mào tinh hoàn, do đó có thể gây vô sinh. Ở nữ giới, biến chứng thường gặp là viêm tiểu khung (bao gồm viêm vòi trứng, buồng trứng, viêm phúc mạc chậu hông), viêm nội mạc tử cung, những biến chứng này chẳng những có thể gây vô sinh mà còn có thể gây nguy hiểm đến tính mạng (đặc biệt là viêm phúc mạc tiểu khung).
    Điều trị Chlamydia như thế nào?
    Nhiễm Chlamydia được điều trị nội khoa, sử dụng kháng sinh diệt vi khuẩn. Các kháng sinh thường dùng là Doxycyclin, Tetracyclin, Erythromycine. Với nhiễm Chlamydia chưa có biến chứng thì thời gian điều trị khoảng 10 ngày, với những trường hợp có biến chứng thì thời gian điều trị sẽ kéo dài hơn

    Lần sửa cuối bởi Tuanmecsedec, ngày 03-08-2013 lúc 11:32.

  18. #38
    Admin diendanhiv.vn
    ( Sanh năm 1971 ) 17 năm trong chuyên môn tư vấn HIV miễn phí
    Tuanmecsedec's Avatar
    Ngày tham gia
    29-08-2007
    Giới tính
    Nam
    Đến từ
    Giấy chứng nhận tham vấn số : 041/UB AIDS - TV do ủy ban phòng chống HIV/AIDS TPHCM.
    Bài viết
    103,925
    Cảm ơn
    1,921
    Được cảm ơn: 21,170 lần
    Bài 4-Bệnh Hạ cam

    Bệnh Hạ cam


    Hạ cam là bệnh nhiễm khuẩn sùi loét bộ phận sinh dục do trực khuẩn Hemophilus ducreyi gây nên. Hạ cam gặp ở khắp mọi nơi trên thế giới, đặc biệt là các nước vùng nhiệt đới đang phát triển, tỷ lệ khoảng 50-60/100.000 dân. Hạ cam xuất hiện phổ biến nhất là các quần thể dân cư sống ở thành thị nhưng có điều kiện kinh tế xã hội thấp kém, hoặc gái mại dâm, nghiện chích ma túy, đây cũng là các yếu tố nguy cơ của nhiễm HIV.


    Vi khuẩn H.ducreyi chỉ có thể phát triển được nhờ các yếu tố có trong hồng cầu (protoporphirin) do vậy H.ducreyi không sinh sống trong môi trường ngoài bình thường được.
    Bệnh hạ cam lây truyền như thế nào?
    Hạ cam chỉ lây truyền qua giao hợp khi giao hợp không được bảo vệ, theo mọi hình thức (âm đạo, hậu môn, miệng) mà không lây truyền theo những đường khác như tiêm chích, tiếp xúc thông thường...
    Bệnh hạ cam có biểu hiện như thế nào?
    Thời kỳ ủ bệnh của hạ cam từ 1-15 ngày.
    Bệnh hạ cam thường biểu hiện ra bên ngoài bởi những vết loét ranh giới rõ rệt, thường giới hạn ở khu vực bộ phận sinh dục ngoài và đáy chậu. Các vết loét này tiết dịch màu vàng nhạt, đáy nổi hạt, rất đau. Ngoài ra còn có những biểu hiện khác như sẩn loét, sưng đau hạch bẹn khi vỡ có chảy mủ lẫn máu.
    Bệnh hạ cam tiến triển như thế nào?
    Bệnh hạ cam tiến triển cấp tính và bán cấp tính, đặc biệt do có biểu hiện đau, loét nên thường được phát hiện sớm, điều trị kịp thời.
    Bệnh hạ cam có biến chứng gì?
    Các ổ loét của hạ cam có thể bị nhiễm khuẩn, có thể gây viêm phần phụ do bội nhiễm, áp xe hạch bẹn.
    Điều trị bệnh hạ cam như thế nào?
    Hiện nay vi rút H.ducreyi đã kháng lại nhiều kháng sinh, đại dịch HIV/AIDS bùng phát làm cho điều trị hạ cam trở nên khó khăn hơn. Tuy nhiên hạ cam có thể điều trị khỏi hoàn toàn bằng thuốc, các thuốc có hiệu quả đối với bệnh hạ cam là Erythromycin, Ciproflocacine, Ceftriaxone, Trimethoprim/Sulfamethoxazole. Tuy nhiên, việc điều trị cần phải theo chỉ định của bác sỹ.
    GiaoDucGioiTinhOnline
    Lần sửa cuối bởi Tuanmecsedec, ngày 03-08-2013 lúc 11:33.

  19. #39
    Admin diendanhiv.vn
    ( Sanh năm 1971 ) 17 năm trong chuyên môn tư vấn HIV miễn phí
    Tuanmecsedec's Avatar
    Ngày tham gia
    29-08-2007
    Giới tính
    Nam
    Đến từ
    Giấy chứng nhận tham vấn số : 041/UB AIDS - TV do ủy ban phòng chống HIV/AIDS TPHCM.
    Bài viết
    103,925
    Cảm ơn
    1,921
    Được cảm ơn: 21,170 lần
    Bài 5- Viêm gan siêu vi B

    Viêm gan siêu vi B


    Viêm gan siêu vi B còn hay gọi là viêm gan B, viêm gan huyết thanh. Là bệnh lý viêm gan cấp tính hoặc mạn tính do Hepatitis B Virus (HBV) gây nên. Viêm gan đã xuất hiện từ thời xa xưa, nhưng đến năm 1975 thì HBV mới được mô tả đầy đủ, đó là loại virus chứa nhân DNA, chúng chỉ có thể nhân lên và phát triển được trong tế bào động vật. HbsAg (một dấu tích của nhiễm HBV) đã được tìm thấy ở người, một số loài linh trưởng khác. Bệnh viêm gan B có phạm vi lây nhiễm trên toàn thế giới, ở Việt nam


    Bệnh viêm gan B lây truyền như thế nào?
    Đường lây truyền HBV chủ yếu qua đường truyền máu hoặc các sản phẩm từ máu. HBV còn lây truyền qua giao hợp khi giao hợp không được bảo vệ, đặc biệt giao hợp theo đường miệng, hậu môn (đây là đường lây truyền chính ở các nước phát triển). Quarrell (1974) đã mô tả những trường hợp lây truyền qua hôn nhau, dùng chung dao cạo, bàn chải đánh răng của những người có HbsAg (+) và thực tế thì người ta cũng thấy HbsAg trong nước bọt, tinh dịch, chất tiết âm đạo. Những trường hợp khác như xăm mình, nhổ răng, châm cứu mà dụng cụ không đảm bảo thì cũng có thể lây bệnh. Việc lây nhiễm từ mẹ sang con trong thời kỳ bào thai cũng đã được xác nhận, tuy nhiên tỷ lệ thấp.
    Bệnh viêm gan B có biểu hiện như thế nào?
    Thời kỳ ủ bệnh của HBV khoảng 60-160 ngày. Các biểu hiện của viêm gan cấp thể thông thường như sau:
    Khởi đầu là các biểu hiện giống như cúm (sốt nhẹ, đau cơ, đau đầu, đau khớp) sau đó là rối loạn tiêu hóa (chán ăn, buồn nôn, nôn, táo bón hoặc ỉa chảy. Mệt mỏi cả thể lực và tinh thần. Tiếp theo, người bệnh có biểu hiện vàng da, vàng mắt, nước tiểu vàng sẫm và các biểu hiện giống cúm hết đi nhưng rối loạn tiêu hóa thì vẫn còn. Biểu hiện của viêm gan cấp kéo dai khoảng 4-8 tuần.

    Khi các dấu hiệu đó kéo dài trên 6 tháng thì gọi là viêm gan B mạn tính.
    Bệnh viêm gan B tiến triển như thế nào?
    Tiến triển của viêm gan B rất khác nhau, tùy thuộc cơ địa, điều kiện vệ sinh, lứa tuổi mỗi người, mỗi chủng tộc. Bệnh có thể tối cấp, các biểu hiện rất nặng và có thể nhanh chóng hôn mê gan rồi tử vong trong 6 đến 10 ngày. Nhưng phần lớn tiến triển từ từ, không có dâu hiệu rõ ràng và trở thành mạn tính.
    Bệnh viêm gan B có biến chứng gì?
    Những biến chứng cấp tính như teo gan cấp, xuất huyết, hôn mê gan. Những biến chứng mạn tính như xơ gan, ung thư gan.
    Điều trị viêm gan B như thế nào?
    Trong trường hợp cấp, người bệnh cần được nhập viện ngay để theo dõi, và điều trị, nghỉ ngơi tại giường trong vài tuần đầu, ăn ít mỡ nhiều đường, tăng protid. Một số thuốc được sử dụng trong bệnh viện như truyền dịch Glucose, Vitamin C, Artichaut, Sorbitol và có thể cả Corticoid.
    Hiện nay thuốc điều trị diệt virus chưa được thông báo rõ ràng, chỉ có một số thuốc làm ngừng sự phát triển của virus và làm mất dấu tích virus (HbsAg âm tính trở lại) được áp dụng là g-interferone, Lamivudine.
    Viêm gan siêu vi B
    Việt Nam nằm trong khu vực có tỷ lệ người mang virus viêm gan B cao trên thế giới, cứ 8 người thì có 1 bị nhiễm. Tỷ lệ nhiễm virus gây viêm gan siêu vi B (HBV) trong các bệnh viêm gan cấp từ 37,8-43,5%, có khả năng chuyển sang bị viêm gan mạn tính, tiến triển tới xơ gan và ung thư gan, dẫn đến tử vong sớm do không phát hiện và điều trị đúng cách.


    Hơn 80% người mang virus viêm gan B không có triệu chứng rõ ràng, họ vẫn cảm thấy hoàn toàn khỏe mạnh. Chỉ khoảng 20% có những dấu hiệu ban đầu như mệt mỏi, chán ăn, nôn... kéo dài trong vài ngày, rồi chuyển sang giai đoạn vàng da, vàng mắt... Viêm gan quá nặng có thể dẫn đến hôn mê và tử vong. Ước tính, số người tử vong do viêm gan siêu vi B nói chung là 42.000 người mỗi năm. Đó là số liệu được đưa ra tại Hội thảo Quốc gia về Bệnh gan mật tổ chức trong hai ngày 19 và 20/9/2004.

    Theo tiến sĩ Cao Văn Viên - Phó Viện trưởng Viện Y học Lâm sàng Các bệnh nhiệt đới - thống kê tại Viện cho thấy, trong 685 trường hợp bệnh gan có dấu ấn virus thì 452 trường hợp là viêm gan cấp, 160 trường hợp là viêm gan mạn tính và 73 ca xơ gan.

    Viêm gan siêu vi B là gì?

    Viêm gan siêu vi B gây ra bởi siêu vi B, một virus DNA có vỏ, một khi tấn công tế bào gan, gây hủy hoại và viêm. Nhiễm trùng có thể cấp hay mạn đi từ nhiễm trùng không triệu chứng tự khỏi đến bệnh rất nặng: thể tối cấp rất hiếm, có kết cục tử vong.


    Viêm gan siêu B lây qua những con đường nào?

    Viên gan B là một bệnh truyền nhiễm, nó có thể lây truyền từ người bệnh sang người lành qua những con đường sau đây.
    - Truyền máu
    - Tiếp xúc với máu hay các chất dịch của bệnh nhân trong khi da hoặc niêm mạc bị trầy xước, bị đâm thủng như trong các trường hợp: tiêm chích ma tuý, châm cứu, xăm mình, xỏ lỗ tai, dùng chung bàn chải đánh răng, dao cạo râu...
    - Qua dụng cụ y tế không đảm bảo vô trùng khi chữa răng, nội soi hoặc nạo thai... ở những cơ sở y tế không đảm bảo.
    - Quan hệ tình dục không an toàn với người bệnh
    - Truyền từ mẹ sang con.

    Phòng tránh viêm gan siêu vi B như thế nào?

    Ý thức được các con đường lây nhiễm của viêm gan siêu vi B để có cách phòng tránh trong từng tình huống cụ thể. Ngoài ra, tiêm phòng viêm gan siêu vi B là một cách để bạn tự giúp mình và giúp con bạn tránh được nguy cơ lây nhiễm.

    Vì sao phải tiêm phòng?

    Đối với trẻ em: Nếu không được bảo vệ tốt ngay khi chào đời, nguy cơ trẻ bị nhiễm viêm gan siêu vi B từ mẹ sẽ lên tới 90%. Khi trưởng thành, các em dễ bị xơ gan hoặc viêm gan mạn tính. Khi đã mắc bệnh thì việc điều trị khá phức tạp, tốn kém, nên việc tiêm ngừa đã được nhiều nước trên thế giới đưa vào chương trình tiêm chủng quốc gia.
    Đối với người lớn: Nếu chưa bị nhiễm việc tiêm phòng có thể giảm được nguy cơ mắc viêm gan B và những hậu quả có thể.

    Ai cần tiêm ngừa viêm gan siêu vi B?

    Tất cả mọi người chưa nhiễm viêm gan B đều cần được tiêm phòng. Ưu tiên cho đối tượng trẻ sơ sinh, trẻ em và thanh thiếu niên.
    Với điều kiện của Việt Nam hiện nay chỉ mới phổ cập tiêm ngừa viêm gan siêu vi B cho trẻ sơ sinh vì nó mang lại rất nhiều lợi ích: phòng ngừa bệnh cho cả một thế hệ, trẻ bị nhiễm ở lứa tuổi sơ sinh rất dễ chuyển thành mạn tính và trở thành nguồn lây.
    Chủng ngừa viêm gan siêu vi B được xem là rất an toàn và chưa có một chống chỉ định nào – nghĩa là ai cũng chủng ngừa được.
    Có nên xét nghiệm trước khi tiêm ngừa viêm gan siêu vi B?
    Với trẻ sơ sinh

    Tiêm chủng càng sớm càng tốt mà không cần xét nghiệm.

    Với trẻ em và người lớn

    Ở Việt Nam có đến 15% dân số bị nhiễm viêm gan siêu vi B, nên nhiều trẻ em và người lớn có khả năng đã bị nhiễm. Do đó, trước khi tiêm phòng cần xét nghiệm máu xem mình đã bị nhiễm chưa. Xét nghiệm tối thiểu trước khi chủng ngừa là HbsAg (cho biết có đang nhiễm hay không) và antiHBs (cho biết cơ thể đã được bảo vệ hay chưa)

    - Viêm gan siêu vi B cấp có HbsAg(+), men gan tăng cao 3-4 lần bình thường nhưng tự khỏi trong 90-95% bệnh nhân, có sự biến mất HBsAg và tế bào gan lành lại sau 4-6 tuần lễ mắc bệnh. Khoảng 5-10% viêm gan B lại diễn tiến thành thể mạn tính có HbsAg(+) lâu dài trong máu, một số ít diễn tiến viêm gan mạn có xét nghiệm máu HbsAg(+), Hbc(+): khó làm ở nước ta, men gan SGOT, SGPT tăng nhẹ, HbeAg(+).

    - Nếu HBsAg (-) va antiHBs (+) nghĩa là đã bị nhiễm nhưng đã khỏi bệnh và cơ thể đủ sức tạo ra kháng thể bảo vệ nên không cần tiêm ngừa.

    - Nếu HbsAg (-) và antiHBs (-) là cơ thể hoàn toàn chưa bị nhiễm thì nên chích ngừa.

    - Nếu HbsAg (+) và antiHBs (-) là cơ thể đang bị nhiễm mà chưa được bảo vệ cũng không cần phải chủng ngừa, mà tùy theo tình trạng cụ thể của bệnh nhân mà bác sĩ quyết định điều trị hay theo dõi.

    Lịch tiêm ngừa viêm gan siêu vi B như thế nào?

    Hiện nay, đa số các trường hợp, người ta áp dụng lịch chủng ngừa: 0-1-6, có nghĩa là hai mũi tiêm đầu cách nhau một tháng để tạo miễn dịch cơ bản ban đầu, còn mũi thứ ba tiêm nhắc lại cách sáu tháng tính từ mũi đầu tiên. Tuy nhiên, một số trường hợp đặc biệt cần kích thích nhanh đáp ứng miễn dịch của cơ thể, nhất là ở trẻ sơ sinh có mẹ bị nhiễm siêu vi B mãn tính, người ta tiêm 4 mũi theo lịch: 0-1-2-12, có nghĩa là 3 mũi đầu cách nhau một tháng để tạo miễn dịch cơ bản, còn mũi thứ tư cách mũi đầu tiên 12 tháng là mũi tiêm nhắc lại.
    Tiêm phòng viêm gan siêu vi B ở đâu?

    Trạm y tế xã, trung tâm y tế phường, bệnh viện huyện, tỉnh, thành phố, quốc gia là những nơi bạn có thể đưa con em mình đến để tiêm phòng viêm gan B theo lịch tiêm chủng quốc gia.

    Đối với người lớn, trước khi tiêm phòng viêm gan B, cần phải đi xét nghiệm xem mình đã bị nhiễm bệnh chưa, do đó, bạn nên tìm đến những địa chỉ tin cậy có đầy đủ điều kiện về cơ sở vật chất để có thể cho kết quả xét nghiệm một cách chính xác.

    Ở thành phố Hồ Chí Minh: Trung Tâm Chẩn Ðoán Y Khoa đường Hoà Hảo hay Viện Pasteur.

    Ở Hà Nội: Tung tâm y tế dự phòng 50C Hàng Bài, Bnh viện Bạch Mai, Viện Y học lâm sàng các bệnh nhiệt đới là những địa chỉ bạn có thể tìm đến.

    Có phải khi nào mắc viêm gan siêu vi B cũng phải điều trị?

    Căn cứ vào kết quả xét nghiệm bác sĩ sẽ quyết định bạn có cần phải điều trị hay không. Những người chỉ có HBsAg(+ ) thường là tình cờ phát hiện sau khi thử máu, cócần phải chích ngừa không? Những người này không thể chích ngừa vì vô ích, không tác dụng, phí tiền. Những người này hoàn toàn khỏe mạnh, không có gì là người bệnh nếu không thử máu gọi là người lành mang mầm bệnh. Bạn vẫn có thể sống bình thường với siêu vi B đến suốt đời không sao cả. Có điều thỉnh thoảng nên thử men gan xem có viêm gan mạn mới cần điều trị. Bạn không cần phải ăn kiêng vì gan bạn không thương tổn, có điều nên chích ngừa cho những người thân tránh nhiễm thêm. Bạn không cần phải điều trị với bất cứ thuốc gì vì đến nay y học vẫn chưa khám phá ra thuốc nào diệt được siêu vi B thật sự ngay cả Interferon. Người ta đã thấy Interferon trị tốt viêm gan mạn đến 40-50% nhưng với người lành mang mầm bệnh thuốc lại ít tác dụng. Bạn cũng không cần Liv 52, Legalon, Carsil. Chỉ phí tiền và uống 5,6 tháng cũng không thay đổi gì tình trạng bạn được.

    Người viêm gan mạn là người có tiền sử viêm gan nhiều tháng, nhiều năm trước đây có những dấu hiệu gợi ý như đau hạ sườn phải, mệt mỏi, ăn khó tiêu nhất là các chất mỡ. Thử máu có HBsAg + , HBeAg+ , AntiHBc+ và men gan hay SGOT SGPT tăng trên 50UI/ml. Tùy theo tình trạng tài chính, bác sĩ có thể cho dùng các thuốc không chuyên biệt, giảm thiểu tổn thương tế bào gan như Nissel, Fortec, Legalon, hoặc thuốc thật đắt tiền như Interferon.
    Lần sửa cuối bởi Tuanmecsedec, ngày 03-08-2013 lúc 11:33.

  20. #40
    Admin diendanhiv.vn
    ( Sanh năm 1971 ) 17 năm trong chuyên môn tư vấn HIV miễn phí
    Tuanmecsedec's Avatar
    Ngày tham gia
    29-08-2007
    Giới tính
    Nam
    Đến từ
    Giấy chứng nhận tham vấn số : 041/UB AIDS - TV do ủy ban phòng chống HIV/AIDS TPHCM.
    Bài viết
    103,925
    Cảm ơn
    1,921
    Được cảm ơn: 21,170 lần
    Bài 6-Bệnh mụn rộp sinh dục

    Bệnh mụn rộp sinh dục


    Mụn rộp sinh dục là bệnh nhiễm trùng ở bộ phận sinh dục được gây ra bởi virus Herpes simplex (HSV). HSV là loại virus có nhân DNA, gồm 2 type (HSV-1 và HSV-2). Chúng có thể gây bênh ở nhiều nơi khác nhau trong cơ thể, như da, niêm mạc, hệ thần kinh trung ương, nội tạng. HSV gặp ở mọi nơi trên thế giới, tỷ lệ nhiễm HSV ở những người đến khám bệnh da liễu khoảng 2%. Nghiên cứu ở Australia cho thấy cứ 6 người có hoạt động tình dục thì có 1 người đã từng ít nhất 1 lần có biểu hiện của nhiễm HSV.


    Mụn rộp sinh dục lây truyền như thế nào?
    Mụn rộp sinh dục lây truyền qua giao hợp không được bảo vệ (theo hình thức dương vật - âm đạo hoặc dương vật - miệng), hoặc có thể lây truyền qua vết xước của bộ phận sinh dục khi tiếp xúc với dịch tiết của mụn rộp.
    Mụn rộp sinh dục có biểu hiện như thế nào?
    Thời gian ủ bệnh của mụn rộp sinh dục khoảng 1 tuần.
    Đầu tiên là tình trạng giả cúm (sốt, đau đầu, mệt mỏi, đau cơ toàn thân) sau đó xuất hiện đau, ngứa, đái khó, tiết dịch âm đạo, niệu đạo, các mụn nước nổi lên ở bộ phận sinh dục ngoài, lan rộng, sau vài ngày tự vỡ chảy nước vàng và để lại vết loét trợt rất nông, nền đỏ, đau, ngứa. Các vết loét này đóng vảy sau vài ngày đến vài tuần, không để lại sẹo, dễ tái phát.
    Tiến triển của mụn rộp sinh dục như thế nào?
    Mụn rộp sinh dục tiến triển thường rầm rộ và thường kéo dài từ 1-3 tuần, sau đó có thể tái phát lại dù có được điều trị. Tỷ lệ tái phát trong vòng 12 tháng của mụn rộp sinh dục là 90% đối với type 1 và 55% đối với type 2.
    Biến chứng của mụn rộp sinh dục là gì?
    Do có các vết loét ở bộ phận sinh dục nên biến chứng đầu tiên là nhiễm khuẩn (bội nhiễm), có thể có các biến chứng khác ở bạn gái như viêm cổ tử cung do herpes, viêm nội mạc tử cung, viêm phần phụ.... Còn ở nam giới, có thể gây viêm mào tinh hoàn, viêm tiền liệt tuyến.
    Điều trị mụn rộp sinh dục như thế nào?
    HSV là một loại virus do vậy, cũng như mọi loại virus khác, kháng sinh không có thể diệt được chúng. Hiện nay việc sử dụng các thuốc kháng virus như acylovir, valacyclovir đã được áp dụng. Những thuốc này không diệt dược virus, không loại được virus ra khỏi cơ thê nhưng chúng kìm hãm được tốc độ phát triển của virus trong cơ thể, điều đó sẽ làm giảm các triệu chứng (mụn rộp, đau, ngứa). Tuy nhiên hiệu quả điều trị của những thuốc này còn khiêm tốn, chỉ có tác dụng trong giai đoạn cấp mà thôi, không ngăn ngừa được tái phát.
    Lần sửa cuối bởi Tuanmecsedec, ngày 03-08-2013 lúc 11:34.

Trang 2 của 3 Đầu tiênĐầu tiên 123 CuốiCuối

Thông tin về chủ đề này

Users Browsing this Thread

Có 1 người đang xem chủ đề. (0 thành viên và 1 khách)

Các Chủ đề tương tự

  1. Cô giáo nhiễm HIV: Chuyện đời và chuyện tình.
    Bởi Charles trong diễn đàn Họ vẫn bên nhau
    Trả lời: 3
    Bài viết cuối: 20-08-2013, 21:35
  2. Khám thai sớm và xét nghiệm HIV tự nguyện.
    Bởi Tuanmecsedec trong diễn đàn Mang thai, sinh em bé
    Trả lời: 0
    Bài viết cuối: 11-07-2013, 21:49

Quyền viết bài

  • Bạn Không thể gửi Chủ đề mới
  • Bạn Không thể Gửi trả lời
  • Bạn Không thể Gửi file đính kèm
  • Bạn Không thể Sửa bài viết của mình
  •