Kết quả 1 đến 11 của 11

Chủ đề: Các triệu chứng chức năng bộ máy tiêu hoá.

  1. #1
    Thành viên năng động nhiệt tình.
    Ngày tham gia
    18-07-2009
    Giới tính
    Nam
    Đến từ
    Tp.HCM
    Bài viết
    47,923
    Cảm ơn
    2,578
    Được cảm ơn: 11,968 lần

    Các triệu chứng chức năng bộ máy tiêu hoá.

    CÁC TRIỆU CHỨNG CHỨC NĂNG BỘ MÁY TIÊU HOÁ.

    Triệu chứng chức năng đóng một vai trò rất quan trọng trong các bệnh về tiêu hoá, nhiều khi dựa vào các dấu hiệu chức năng qua quá trình hỏi bệnh có thể gợi ý ngay cho ta chẩn đoán trong một số trường hợp điển hình như sau:- Đau ở vùng thượng vị kéo dài có chu kỳ, có liên quan rõ rệt tới bữa ăn và thời tiết gợi ý ngay cho ta nghĩ đến một loét dạ dày – tá tràng.- Mặt khác những dấu hiệu về chức năng hoàn toàn chỉ vào lời khia của người bệnh, nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố chủ quan và cá tính của mỗi người bệnh khiến cho không thể chỉ hoàn toàn dựa vào đó để chẩn đoán mà phải kết hợp với các phương pháp khác.- Dưới đây là những dấu hiệu chức năng của các bệnh về tiêu hoá mỗi triệu chứng sẽ có một bài riêng trình bày chi tiết sau này:· Đau: là triệu chứng thường hay gặp nhất trong các bệnh về tiêu hoá, góp phần khá quan trọng đối với quá trình chẩn đoán bệnh. Đau thường là triệu chứng làm cho người bệnh đi khám bệnh và là triệu chứng đầu tiên khiến người thầy thuốc hướng đến một bệnh nào đó. Do đó khi khai thác dấu hiệu đau cần phải hỏi chi tiết và tỉ mỉ và có hệ thống.· Nôn: là hiện tượng những chất chứa trong dạ dày bị tống qua đường miệng ra ngoài, nôn thường kèm theo các triệu chứng biểu hiện buồn nôn, lợm gịong. Nôn hay gặp ở các bệnh về tiêu hoá, nhất là dạ dày và cũng có thể là sẽ gặp ở những bệnh thuộc các bộ phận khác hoặc toàn thân như ngộ độc, màng não bị kích thích, tăng áp lực sọ não, thai nghén. Tuỳ theo chất nôn và tính chất nôn, ta phân biệt nôn ra máu, nôn ra thức ăn, nôn vọt, nôn khan…·Ợ: là hiện tượng ứa lên miệng nước và hơi trong dạ dày và thực quản do dạ dày, tâm vị và thực quản co thắt không đồng thời, kèm theo sự co thắt của cơ hoành và các cơ thành bụng. Ta phân biệt ợ hơi và ợ nước tuỳ theo chất được ợ ra.+ Ợ hơi: thường là hơi ở dạ dày đưa lên, có thể do nuốt nhiều không khí trong quá trình ăn uống, có thể thức ăn và thức uống sinh nhiều hơi, có thể do rối loạn chức năng của dạ dày và thực quản, nhưng cũng có khi do bệnh của các thành phần khác trong bộ máy tiêu hoá gây nên.+ Ợ nước: tuỳ theo chất nước ta phân biệt:Ø nước trong, do nước bọt và dịch thực quản trộn lẫn, ợ lên do tâm vị co thắt.Ø Ợ nước chua do dịch vị từ dạ dày trào lên có khi gây cảm giác nóng bỏng.Ø Ợ nước đắng, thường do nước mật từ tá tràng qua dạ dày trào lên.Ø Ợ thức ăn từ dạ dày lên.· Những rối loạn về nuốt: thường biểu hiện những bệnh của họng và thực quản:+ Nuốt đau: đau ở phần cao gặp trong viêm họng, ápxe thành sau họng, những tổn thương ở thực quản có thể gây cảm giác nuốt đau, nhẹ thì có cảm giác vướng ở cổ, nặng có cảm giác đau rát, nặng hơn nữa thấy đau ran ở ngực phải lấy tay chặn ngực.+ Nuốt khó: tuỳ mức độ, bắt đầu là nuốt khó chất nhão, cuối cùng nuốt khó cả chất lỏng.+ Tất cả những nguyên nhân làm hẹp thực quản đều gây khó nuốt: ung thư thực quản, sẹo bỏng thực quản, hẹp tâm vị, khối u trung thất đè vào thực quản.Trớ: thức ăn đến chỗ hẹp không xuống được gây cảm giác khó nuốt, đồng thời đi ngược trở lại lên mồm gọi là trớ. Trớ có thể xảy ra ngay khi ăn hoặc ít lâu sau khi ăn. Đối với giãn thực quản hoặc túi phình thực quản, thức ăn đọng lâu trong đó mới trớ ra, nên xuất hiện muộn sau khi ăn và có thể có mùi thối. Những thức ăn trớ từ thực quản lên khác với những thức ăn từ dạ dày nôn ra là không có axit clohydric và pepsin.+ Nghẹn đặc, sặc lỏng: liệt màn hầu và lưỡi gà do đó thức ăn có thể đi lầm đường lên mũi và vào đường hô hấp gây khó thở.· Những rối loạn về sự ngon miệng, thèm ăn và quá trình tiêu hoá nói chung.+ Không muốn ăn: có thể do các bệnh về tiêu hoá nhất là bệnh về gan, nhưng phần lớn là biểu hiện của các bệnh toàn thân. Ngoài ra còn chịu ảnh hưởng của yếu tố tinh thần.+ Đầy, khó tiêu: cảm giác đầy bụng, đầy hơi, khó tiêu, nặng bụng, gặp trong các bệnh tiêu hoá và bệnh toàn thân.· Những rối loạn về đại tiện: những rối loạn này phụ thuộc vào nhiều yếu tố, bao gồm các rối loạn sau:+ Ỉa chảy.+ Táo bón và kiết lỵ.+ Ỉa máu tươi và phân đen.
    ads

  2. #2
    Thành viên năng động nhiệt tình.
    Ngày tham gia
    18-07-2009
    Giới tính
    Nam
    Đến từ
    Tp.HCM
    Bài viết
    47,923
    Cảm ơn
    2,578
    Được cảm ơn: 11,968 lần
    CÁCH KHÁM LÂM SÀNG BỘ MÁY TIÊU HOÁ.

    Trong quá trình khám lâm sàng bộ máy tiêu hoá ta có thể chia ra làm hai phần:- Phân tiêu hoá trên có: miệng, họng, thực quản. Phần dưới gồm có: hậu môn và trực tràng. Mỗi bộ phận trong phần này đòi hỏi có một cách khám riêng.- Phần tiêu hoá giữa gồm có: dạ dày, ruột non, ruột kết, gan,mật và tuỵ tạng: tất cả đều nằm trong ỏ bụng, đòi hỏi một phương pháp thăm khám chung, khám bụng.
    1. Khám phần tiêu hoá trên và dưới.

    - Khám môi:· Bình thường: Môi màu hồng cân xứng với các bộ phận khác.· Bệnh lý:
    + Màu sắc: môi tím trong suy tim, suy hô hấp (hen, giãn phế nang…). Môi nhợt trong bệnh thiếu máu.
    + Khối lượng: môi to ra trong bệnh to các viễn cực: nổi u cục cứng hoặc sùi trong các bệnh u lành hoặc ác tính.
    + Những tổn thương khác do mụn phỏng nhỏ mọng nước ở hai mép: chốc mép: nứt kẽ mép giống hình chân ngỗng: giang mai bẩm sinh. Môi trên tách đôi bẩm sinh.
    - Khám hố miệng:· Cách khám: người bệnh há miệng, dùng đèn pin hoặc đèn chiếu để chiếu sáng nếu không bảo người bệnh quay ra phía sáng, ta dùng đè lưỡi để khám thành bên, hai bên và nền miệng, chú ý lỗ ống Stenon ( ở mặt trong má cạnh răng hàm trên số 6 – 7).· Bình thường: niêm mạc hố màu hồng, nhẵn hơi ướt.· Bệnh lý, ta có thể thấy.
    + Màu sắc: có mảng đen trong bệnh Addison: có những chấm xuất huyết, bệnh chảy máu.Những vết loét, ổ loét: trong các bệnh nhiễm khuẩn, bạch cầu cấp: cam tẩu mã: vết loét phát triển rất nhanh, màu đen và rất thối, loét do thiếu Vitamin A, C hay PP.
    + Những mụn mọng nước: do các bệnh nhiểm khuẩn toàn thân.
    + Những khối u: U nang của tuyến nước bọt: những dị dạng bẩm sinh: vòm miệng tách đôi.
    + Hạt Koplik: màu đỏ ở giữa hơi xanh hoặc trắng, to bằng đầu ghim, ở mặt trong má, gặp trong bệnh sởi.
    + Lỗ ống Stenon đỏ và sưng trong bệnh quai bị.
    - Khám lưỡi.Xem lưỡi về các phương diện màu sắc, niêm mạc, gai lưỡi và hình thể.· Bình thường: lưỡi màu hồng, hơi ướt, các gai lưỡi rõ.· Bệnh lý ta có thể thấy:
    + Màu sắc và tình trạng niêm mạc:Ø Trắng bẩn hoặc đỏ và khô trong những bệnh nhiễm khuẩn.Ø Đen trong các bệnh Addisson thiếu Vitamin PP, urê máu cao.Ø Vàng (nhất là mặt dưới lưỡi) trong những bệnh gây vàng da.Ø Nhợt nhạt, mất gai trong thiếu máu.Ø Bóng đỏ, mất gai và đau trong thiếu máu hồng cầu to Biermer (viêm lưỡi kiểu Hunter).Ø Loét và nứt kẽ lưỡi: đặc biệt loét ở phanh dưới lưỡi, gặp trong bệnh ho gà.Ø Những mảng trắng dày và cứng: tình trạng tiền ung thư của lưỡi.
    + Khối lượng:Ø To đều trong bệnh to các viễn cực, bệnh suy giáp trạng.Ø Teo một bên lưỡi do liệt dây thần kinh dưới lưỡi.Ø Các khối u bất thường của lưỡi (lành tính và ác tính).- Khám lợi và răng:· Lợi:
    + Bình thường lợi màu hồng, bông ướt, và bám vào chân răng, giống như niêm mạc ở miệng.
    + Bệnh lý:Ø Có mảng đen trong bệnh Addisson.Ø Loét trong nhiễm độc mạn tính chì, thuỷ ngân, thiếu Vitamin C, A, PP loét có thể chảy máu trong thiếu Vitamin C.Ø Chảy mủ chân răng: dùng đè lưỡi ấn vào chân răng, mủ sẽ chảy ra mủ chân răng có thể đọng thành những túi nằm sâu giữa lợi và răng.Ø Lợi sưng to: do viêm có mủ: khối u của lợi, răng hoặc xương hàm.· Răng: Khi khám chú ý về số lượng, hình thái và tổn thương của răng.
    + Bình thường số lượng của răng phụ thuộc vào tuổi:Ø Sáu tháng mọc từ hai đến bốn răng.Ø Từ 2 đến 5 tuổi có 20 răng sữa.Ø Từ 11 tuổi thay toàn bộ răng sữa.Ø Từ 12 đến 18 tuổi có 28 răng.Ø Từ 18 tuổi trở lên có 32 răng.Về hình thái răng mọc đều đặn: men trắng bóng và không đau khi nhai và khi gõ.· Bệnh lý: các bệnh về răng có nhiều liên quan đến bệnh của bộ máy tiêu hoá và toàn thân.
    + Răng mọc chậm, không đủ số lượng, trong bệnh còi xương.
    + Răng rụng nhiều và dễ dàng, trong bệnh đái tháo đường.
    + Sâu răng: Răng có vết đen và đau…
    + Răng Hutchinson trong giang mai bẩm sinh: hai răng cửa trên chệch hướng, bờ lõm hình bán nguyệt, bờ dưới hẹp (hình đanh vít).
    -Khám họng:Họng là ngã ba đường giữa hô hấp và tiêu hoá, thông với tai qua vòi Eustache. Khi họng có tổn thương bệnh lý có thể ãnh hưởng đến nuốt thở và nghe.·
    Cách khám họng: người bệnh há miệng, chiếu sáng họng bằng đen pin hay đèn chiếu, dùng đè lưỡi nhẹ nhành ấn lưỡi xuống, ta quan sát hình thái niêm mạc của họng.
    · Bình thường:(hình 59) phần trên là lưỡi gà và màn hầu. Hai bên là tuyến hạnh nhân nằm giữa hai cột trước và sau. Phía sau là thành sau họng.Lưỡi gà và màn hầu sẽ kéo lên bịt phần sau của mũi khi ta nuốt. Tuyến hạnh nhân bình thường nhỏ nhắn nắm nấp sua các cột. Nói chung niêm mạc của hầu cũng đỏ hồng, ướt và nhẵn.
    ·
    Bệnh lý:
    + Màn hầu bị liệt một hay hai bên, khi nuốt không kéo lên được và gây sặc lên mũi ( dấu hiệu vén màn).
    + Lưởi gà bị tách đôi trong dị dạng bẩm sinh.+ tuyến hạnh nhân sưng to, có dạng hốc, có mủ,giả mạc khi bị viêm cấp và mạn tính.+ Thành sau của họng có thể loét, có mủ, khối u, giả mạc.
    + muốc quan sát phần trên của vòm họng và tố của vòi Eutache, cần phải dùng gương và đèn chiếu,ta có thể thấy sùi vòm họng (VA) ở phần trên cuảa vòm họng và những tổn thương của lỗ vòi Eustache.- Khám thực quản.
    Thực quản là nội tạng nằm ở trong sâu không thể khám lâm sàng trực tiếp được. Cho nên ngoài việc hỏi những dấu hiệu chức năng như nuốt đau, nuốt khó, trớ… có tính chất gợi ý, cần phải sử dụng các phương pháp cận lâm sàng như: soi thực quản và chụp thực quản có thuốc cản quang để chẩn đoán những bệnh về thực quản.
    -Khám hậu môn và trực tràng. Những tổn thương ở hậu môn và trực tràng thường thấy những dấu hiệu chức năng như đau rát ở hậu môn khi đại tiện, đại tiện khó, mót rặn, đại tiện ra máu ra mũi.· Khám hậu môn:
    + Tư thế người bệnh: Nằm phủ phục, hai chân quỳ hơi dạng, mông cao đầu thấp, vai thấp, mặc quần thủng đít, hay tụt quần qua đùi. Thầy thuốc đứng đối diện quan sát, dùng tay banh các nếp nhăn của hậu môn và bảo người bệnh rặn để giãn cơ vòng, quan sát phần niêm mạc bên trong.
    + Bình thường: phần dạ của hậu môn nhẵn, các vết nhăn mềm và đều đặn, niêm mạc bên trong hồng và ướt.+ Bệnh lý: ta thấy có thể:Ø giữa các nếp nhăn có lỗ rò: lỗ rò thường rất nhỏ, phải quan sát kỹ mới thấy, nếu nặn có thể chảy ra mủ. Hoặc có thể thấy các vết xước giữa các nếp nhăn, có khi thấy giun kim.Ø Trĩ ngoại: ta thấy tĩnh mạch nổi to và ngoằn ngoèo có khi thành từng búi chảy máu và sưng đau.Ø Sa trực tràng: khi một đoạn trực tràng tuột qua hậu môn ra ngoài. Vì cọ xát nên đoạn trực tràng này thường khô và xây sát. Có khi bình thường không thấy nhưng khi rặn mạnh mới lòi ra
    .
    -Khám trực tràng: là một động tác cần thiết và bắt buộc trong quá trình thăm khám tiêu hoá, vì có thể phát hiện những tổn thương quan trọng như ung thư trực tràng, trĩ hoặc tình trạng cấp cứu như viêm màng bụng chửa ngoài dạ con bị vỡ… mà nếu bỏ qua có thể gây nguy hiểm đến tính mạng người bệnh.· Tư thế người bệnh:
    + Nắm phủ phục như khám hậu môn.
    + Nằm ngửa hai chân co và dạng rộng (tư thế sản khoa) thầy thuốc đứng bên phải người bệnh.
    + Nằm nghiêng chân dưới duỗi, chân trên co.Thầy thuốc dùng ngón tay trỏ có bao cao su thấm sầu nhờn (dầu Parafin) cho trơn, đưa nhẹ nhàng và từ từ vào hậu môn người bệnh, thăm sự chứa đựng bên trong trực tràng, tình trạng niêm mạc và thành trước, sau và hai bên trực tràng.· Bình thường:
    + Trực tràng rỗng, không đau khi ấn vào các túi cùng màng bụng (túi cùng Dougia), niêm mạc mềm mại trơn, khi rút tay ra không có máu và mủ theo ra.
    + Nam giới ở phía trước, ta sờ thấy tuyến tiền liệt nhỏ, bằng hạt đào, ở giữa có một rãnh dọc nông, mật độ hơi chắc và không đau, ở phía trên là túi cùng hai bên là túi tinh và niệu quản dưới, nhưng không sờ thấy.
    + Nữ giới, qua thăm trực tràng phói hợp với tay đè ăn phía bụng ta có thể thấy một phần tử cung.· Bệnh lý ta có thể thấy:
    + Những cục phân cứng lổn nhổn có thể đẩy lên hoặc móc ra theo tay.
    + Trĩ nội: Thấy từng búi căng phồng và ngoằn ngoèo ở dưới niêm mạc khi rút tay ra có thể cháy máu.
    + Tuyến tiền liệt to hơn bình thường và cứng: u lành hay ác tính của tuyến tiền liệt.
    + Thành của trực tràng có thể thấy những khối u to nhỏ, hoặc những mảng cứng và rất dễ chảy máu khi khám: thường là ung thư trực tràng.
    + Ngoài ra có thể sờ thấy những khối u hoặc hạch nằm ở gần trực tràng, vùng đáy chậu.+ Đặc biệt khi thăm trực tràng ta thấy túi cùng Dougia căng phồng và rất đau trong viêm màng bụng mủ, chảy máu ổ bụng do chửa ngoài dạ con bị vỡ.Những động tác khám hậu môn và trực tràng trên đây bắt buộc người bệnh phải bỏ quần, thầy thuốc cần có thái độ tôn trọng người bệnh, khám nhẹ nhàng, kín đáo, tránh thô bạo sỗ sàng, nhất là đối với phụ nữ.
    2. KHÁM PHẦN TIÊU HOÁ GIỮA (Khám bụng)

    Trong ổ bụng có rất nhiều nội tạng thuộc các bộ máy khác nhau, muốn thăm khám cần phải biết các vị trí của các phần đó ở trong ổ bụng, và nhất là hình chiếu của chúng lên thành bụng, do đó cần phải nắm được sự phân khu của vùng bụng.2.1. Phân Khu Vùng Bụng- Giới hạn của ổ bụng: phía trên là cơ hoành, phía dưới là hai cánh chậu, phía sau là cột sống và cơ lưng, hai bên là cơ và cân thành bụng.- Phân khu bụng: (hình 60)

    a. Phía trước: kẻ hai đường ngang.- Kẻ đường trên qua bờ dưới sườn (điểm thấp nhất).- Đường dưới qua hai gan chậu trước trên.Kẻ hai đường thẳng đứng qua giữa cung đùi phải và trái.Kết quả chia bụng làm ba tầng, 9 vùng, mỗi tầng có 3 vùng.Tầng trên: ở giữa là vùng thượng vị (1); hai bên là vùng hạ sườn phải và hạ sườn trái. (3).Tầng giữa: Ở giữa là vùng rốn (4); hai bên là vùng mạng mỡ phải (5) và trái (6).Tầng dưới: Ở giữa là vùng hạ vị (7); hai bên là vùng hố chậu phải (8) và trái (9).
    b. Phía sau: là hố thắt lưng giới hạn bởi cột sống giữa, xương sườn 1 ở trên, mào chậu ở dưới.
    2.2. Hình chiếu của các cơ quan trong bụng lên từng vùng.
    2.2.1. Thượng vị:-Thuỳ trái gan.-Một phần mặt trước dạ dày, tâm vị, môn vị.-Mạc nối gan – dạ dày, trong mạc nối có mạch máu và ống mật.-Tá tràng.-Tuỵ tạng.-Đám rối thái dương.-Động mạch chủ bụng (đoạn đầu).-Tĩnh mạch chủ bụng (đoạn đầu).
    2.2.2.Vùng hạ sườn phải.-Thuỳ gan phải.-Túi mật.-Góc đại tràng phải.-Tuyến thượng thận phải và cực trên thận phải.
    2.2.3. Vùng hạ sườn trái:-Lách.-Dạ dày.-Góc đại tràng trái.-Đuôi tuỵ.-Tuyến thượng thận trái và cựa trên thận trái.
    2.2.4.Vùng rốn.-Mạc nối lớn.-Đại tràng ngang.-Ruột non.-Mạc treo ruột và bạch mạc treo ruột.-Hai niệu quản dọc hai bên cột sống.-Động mạch chủ bụng và tĩnh mạch chủ bụng.
    2.2.5. Vùng mạng mỡ phải.-Đại tràng lên và ruột non.-Thận trái.
    2.2.6.Vùng mạng mỡ trái-Đại tràng xuống và ruột non.-Thận trái.
    2.2.7. Vùng hạ vị.-Mạc nối lớn.-Ruột non.-Bàng quang.-Đoạn cuối của niệu quản.
    2.2.8. Vùng hố chậu phải.-Manh tràng.-Ruột non.-Ruột thừa.-Buồng trứng phải.
    2.2.9. Hố chậu trái.-Đại tràng sích ma.-Ruột non.-Buồng trứng trái.
    2.2.10. Vùng hố thắt lưng-Thận và niệu quản.
    3. Cách Khám Bụng

    3.1. Nguyên tắc.-Phải khám thật nhẹ nhàng từ nông tới sâu, chỗ lành trước chỗ đau sau.-Phải đặt sát cả hai bàn tay vào thành bụng, không nên chỉ dùng năm đầu ngón tay.-Phải khám nơi đủ ánh sáng, trời lạnh phải khám trong buồng ấm. Xoa tay trước khi khám, giải thích cho người bệnh yên tâm.
    3.2. Tư thế của người bệnh và thầy thuốc.-Người bệnh nằm ngửa, hai tay duỗi thẳng chân co, miệng há thở đều và sâu để thành bụng được mềm, cởi áo hoặc vén áo lên ngực, nới bớt rút quần.-Thầy thuốc ngồi bên phải người bệnh phía dưới.
    3.3. Nhìn· Bình thường: bụng thon tròn đều, thành bụng ngang với xương ức, cử động nhịp nhàng theo nhịp thở, rốn lõm. Người béo hay phụ nữ đẻ nhiều bụng bè ra, ở người phụ nữ đã đẻ trên da bụng có vết rạn da.· Bệnh lý:· Những thay đổi về hình thái:
    - Bụng lõm hình lòng thuyền do suy môn, lao màng bụng.
    - Bụng căng phình.
    + Do có hơi: ruột, dạ dày, chướng hơi.+ Do có khối u: u thận, u buồng trứng, u gan, lách to.
    + Do có nước: khi nằm bụng bè ra, lúc đứng bụng xệ xuống.
    - Rốn lồi: do thoát vị nước hay trong bụng có nước.
    - Thoát vị đường trắng làm cho ruột ở trong thoát ra ngoài cơ thẳng to quá đường trắng dưới lớp da bụng· Những thay đổi về cử động của thành bụng: thành bụng co cứng không cử động theo nhịp thở, các cơ nổi rõ gặp trong co cứng thành bụng do viêm phúc mạc, thủng dạ dày.· Những triệu chứng bất thường ở bụng:
    - Những sẹo mổ, sẹo vết thương cũ ở bụng có giá trị gợi ý chẩn đoán rất tốt; vết mổ đường mật, mổ dạ dày, mổ ruột thừa, mổ tử cung…
    - Những nhu động kiểu rắn bò:
    + Ở vùng thược vị do tắc môn vị dạ dày.
    + Ở vùng rốn do tắc ruột non.
    + Theo dọc khung đại tràng do tắc đoạn cuối đại tràng.
    + Những tĩnh mạch nổi rõ gọi là tuần hoàn bàng hệ gặp trong tăng áp lực tĩnh mạch cửa, tắc tĩnh mạch cửa hoặc tĩnh mạch chủ (xem thêm phần cổ trướng).
    3.4. Sờ nắn: Cần giải thích trước để người bệnh yên tâm, không sợ đau, không sợ buồn, chú ý đến động tác khám của thầy thuốc ( có thể vừa khám vừa hỏi để đánh lạc sự chú ý của người bệnh).
    3.4.1. Các phương pháp sờ nắn:
    -Tìm điểm đau: dùng một hay hai ngón tay ấn vào bụng để tìm vị trí chính xác của điểm đau và vùng đau.
    - Dùng hai bàn tay áp sát vào thành bụng day day theo một vùng tròn ngược chiều kim đồng hồ. Sờ theo nhịp thở người bệnh. Nếu thành bụng dày, cứng dùng hai bàn tay chồng lên nhau để khám.
    - Dùng hai bàn tay móc vào vùng hạ sườn phải hoặc trái người bệnh, thường dùng để khám bờ dưới gan và lách.
    - Đẩy lắc: một bàn tay luồn xuống dưới mạng mở hất lên, bàn tay trên bụng ấn xuống đón lấy thường dùng để khám gan và thận.Chạm bàn tay luồn dưới hố thắt lưng, một bàn tay ở trên ấn xuống để khối u chạm vào tay dưới dùng để phát hiện thận to
    .
    - Tìm dấu hiệu sóng vỗ và dấu hiệu cục đá (xem thêm phần cổ trướng”).
    3.4.2 Bình thường: khi khám ta thấy thành bụng mềm mại, không đau, hông sờ thấy lách thận, bờ dưới gan (trừ một phần của thuỳ trái dưới mũi ức) không sờ thấy u hoặc cục bất thường ở bụng, ấn vào các điểm đặc biệt không đau.
    3.4.3 Bệnh lý- Những thay đổi ở thành bụng:
    + Thành bụng phù nề: khám thầy dầy và ấn vào có vết lõm.
    + Thành bụng căng: có nước hoặc có hơi.
    + Thành bụng lồi lõm, chỗ rắn chỗ mềm: viêm dính màng bụng nhiều chỗ do lao…
    + Thành bụng co cứng và có phản ứng: khi ấn vào thì thành bụng co lại, đồng thời người bệnh kêu đau, gạt tay ta ra không cho khám. Gặp trong viêm màng bụng do bất cứ nguyên nhân gì (thủng dạ dày, thủng ruột thừa).
    - Những điểm đau cần chú ý khi khám (hình 61)
    :

    + Điểm đau túi mật: chỗ bờ ngoài cơ thẳng to phải gặp bờ sườn bên phải. Đau khi viêm túi mật. Đối với điểm túi mật ta còn lại nghiệm pháp Murphy: Ấn nhẹ ngón tay vào điểm túi mật rồi bảo người bệnh hít vào sâu, nếu đau người bệnh sẽ dừng thở lại đột ngột: nghiệm pháp dương tính gặp trong túi mật.
    + Điểm đau Mac Burney: điểm chia 1/3 ngoài và 2/3 trong của đường giữa rốn và gai chậu trước trên bên phải. Đau khi viêm ruột thừa.
    + Điểm cạnh mũi ức bên phải đau trong bệnh giun chui ống mật.
    + Vùng đau đại tràng họp thành một đường dọc theo đại tràng gặp trong viêm đại tràng.
    + Vùng đầu tuỵ và ống dẫn mật chủ: ở trong góc một cạnh là đường giữa bụng, một cạnh là đường phân giác của góc đường giữa và đường ngang rốn bên phải. Vùng này đau trong viêm tuỵ, sỏi mật.
    + Điểm sườn lưng: góc giữa xương sườn thứ 12 và khối cơ chung thắt lưng. Đau trong viêm tuỵ cấp, viêm quanh thận.
    + Các điểm niệu quản: xem phần tiết niệu.
    Phát hiện 1 khối u ổ bụng: trong khi thăm khám ta có thể sờ thấy khối u ở vùng bụng, muốn biết khối u đó thuộc bộ phận nào? Tổn thương ra sao? Cần biết hình chiếu của nó lên thành bụng và tìm lần lượt những đặc tính sau đây:
    + Vị trí: Vùng trên rốn, hạ sườn, hố chậu, dưới rốn…
    + Hình thể và kích thước: thí dụ khối u hình quả đậu dài gần 10 cm, ngang 5-6 cm nghĩ đến thận, cần vẽ lại hình khối u trên giấy để tiện chẩn đoán và theo dõi.
    + Bờ tròn đều hay nham nhở: những khối u ác tính bờ thường gồ ghề nham nhở.
    + Mặt nhẵn hay gồ ghề: mặt lồi lõm cũng thường biểu hiện tính chất ác tính của khối u.
    + Mật độ cứng nhắc hay mềm: lách to thường có mật độ chắc, ung thư gan thường rắn, gan ứ máu thường mềm.
    + Đau hay không? Đau thường biểu hiện viêm nhiễm.
    + Di động hoặc cố định: những khối u của lách, gan có thể di động theo nhịp thở.
    + Ở nông hay sâu: khối u của gan, mạc treo thường nông, khồi u thận ở sâu…
    + Có đập theo nhịp tim không? Khối u mạch máu đập theo nhịp tim.
    + Đồng thời kết hợp gõ để xác định độ đục, trong.
    3.5. Gõ: Gõ bụng phối hợp với sờ nắn mang lại nhiều giá trị chẩn đoán.
    3.5.1. Bình thường: gõ bụng ta xác định được:
    - Vùng đục của gan (xem bài khám gan).
    - Vùng vang trống cuả túi hơi dạ dày (khoảng traube): Hình bán nguyệt ở phần dưới lồng ngực ngay trên bờ sườn trái.
    - Vùng đục của lách (xem bài khám lách).
    3.5.2. Bệnh lý:
    - Gõ vang toàn bộ: bụng chướng hơi.
    - Gõ trong vùng trước gan:thủng dạ dày, thủng ruột. Trong ở đây do hơi tách gan khỏi thành bụng.
    - Gõ đục toàn bộ hay đục ở vùng thấp: bụng có nước.
    - Gõ đục một phần: khối u có nước cục bộ.
    3.6. Nghe. Ít giá trị nên chỉ sử dụng trong một số trường hợp đặc biệt.
    3.6.1. Trong tắc môn vị ứ nước dạ dày: lắc người bệnh vào lúc sáng sớm lúc đói nghe thấy tiếng óc ách của dạ dày.
    3.6.2. Tắc ruột có ứ hơi nước: sờ nắn ta có thể thấy tiếng hơi chuyển ùng ục trong bụng.
    3.6.3. Dùng ống nghe dọc theo đường đi của động mạch, tĩnh mạch trong bụng: nghe thấy tiếng thổi trong trường hợp hẹp hoặc viêm tắc động mạch chủ, động mạch thận…(nghe cả phía trước và phía sau).
    CÁC PHẦN KHÁM KHÁC VỀ BỘ MÁY TIÊU HOÁ

    Ngoài phần khám gan và túi mật sẽ có bài riêng, torng khi khám lâm sàng bộ máy tiêu hoá ta cần khám phân và nước mật.
    1. KHÁM PHÂN.

    Là động tác cần thiết không thể thiếu trong quá trình thăm khám tiêu hoá.
    · Bình thường: phân nàu vàng dẻo, đóng thành khuôn, khối lượng chừng 200 –300g mỗi ngày.
    · Bất thường: phân có thể thay đổi.
    - Về số lượng lần đại tiện: ỉa chảy, táobón.
    - Về khối lượng: trong kiết lị lượng phân rất ít.
    - Về độ rắn, mềm, lỏng.
    - Về chất phân:
    + Phân có màu vàng mỡ: suy gan, tắc mật.
    + Phân bóng, quánh, vàng mỡ: suy tuỵ
    + Phân sống, lổn nhổn, thiếu dịch vị.
    + Phân lẫn máu và mũi: hợi chứng kiết lị.
    - Về mùi: phân có mùi khắm hoặc chua do rối loạn quá trình lên men trong ruột.
    Ngoài nhận xét lâm sàng ta còn cần xét nghiệm phân về phương diện vi mô, hoá học có thể giúp cho chẩn đoán các bệnh về tiêu hoá nhất là các bệnh của ruột, tuỵ tạng và gan mật.
    2. THÔNG DẠ DÀY VÀ TÁ TRÀNG.

    -Thông dạ dày: đặt ống thông vào dạ dày lấy dịch dạ dày để đánh giá về số lượng và chất lượng là một động tác cần thiết trong việc thăm khám dạ dày.
    + Dụng cụ:
    Ống Einhornta
    Cốc thuỷ tinh có chân, chia độ, loại 200ml.
    Bơm tiêu 20ml.
    Một số ống nghiệm.
    Dầu Parafin.
    + Cách tiến hành: sáng sớm lúc đói (chưa ăn và uống), người bệnh ngồi thoải mái và được chuẩn bị tư tưởng từ trước.
    Đặt nhẹ đầu ống Einhorn đã được chấm đầu parafin cho trơn qua miệng người bệnh, khi vào đến họng, bảo người bệnh thở đều và nuốt dần, vừa nuốt ta vừa đẩy nhẹ ống cho đến mứa 45 cm hay 50 cm thì dừng lại vì đã vào đến dạ dày.
    Sau đó dùng bơm tiêm hút dần nước dịch dạ dày hoặc để tự nhiên cho chảy ra.
    +nh thường:
    + Về số lượng: dịch dạ dày lúc đói không quá 100ml, trung bình là 40ml.
    + Mùi: không có mùi.
    + Màu: không có màu hoặc hơi trắng đục.
    + Độ trong: trong hoặc hơi trắng đục, không có lẫn thức ăn.
    + Bất thường:
    + Số lượng: dịch dạ dày lúc đói nhiều hơn 100ml: dạ dày đa tiết, dịch tá tràng trào lên. Hẹp môn vị: dịch dạ dày rất nhiều có lẫn thức ăn từ chiều hôm trước chưa tiêu.
    + Màu sắc:
    Vàng hay xanh: do dịch Tá tràng trào lên.
    Đỏ hồng: máu mới chảy trong dạ dày.
    Nâu đen: máu chảy trong dạ dày đã lâu.
    Dịch dạ dày có máu thường nổi lên tổn thương thực thể của dạ dày: viêm loét, ung thư dạ dày…
    + Để chẩn đoán các bệnh của dạ dày, khi thông dạ dày ta còn tiến hành làm thí nghiệm: histamin, insulin và các nước Âu châu thì dùng bữa ăn Ewan với bánh mì, sau đó theo dõi các thay đổi về số lượng và sinh hoá của dịch dạ dày (sẽ nói kỹ ở phần sau).
    - Thông tá tràng: cũng giống như thông dạ dày, đặt ống thông vào tá tràng, lấy dịch tá tràng, mật, dịch tuỵ, sau đó đánh giá các thay đổi về chất lượng và số lượng để chẩn đoán các bệnh về gan, mật, tuỵ.
    + Dụng cụ:
    Ống Einhorn.
    Một số ống nghiệm.
    Dầu Parafin.
    Bơm tiêm 20ml.
    Dung dịch Magiê Sunfat 30%: 30ml.
    Dầu lạc hay dầu Oliu: 20ml.
    + Cách tiến hành: Tiến hành giống như lấy nước dạ dày. Sau khi ống thông vào đến dày thì: để người bệnh nằm nghiêng qua phải, sau 30 phút đến 1 giờ, đầu ống Einhorn vào đến tá tràng, xác định được chắc chắn bằng tính chất dịch hút ra ( thử với giấy quỳ) và sẽ hút được mật ra, sau đó bơm thêm chất Magiê sunfat hoặc dầu lạc để kích thích tiết mật.
    + Bình thường: ta lấy được 3 loại mật:
    + Mật A màu vàng nhạt và trong, lượng chừng 20ml, là mật ở ống mật.
    + Mật B xuất hiện sau khi kích thích bằng bơm Magiê Sunfat hay dầu lạc. Mật B màu xanh hoặc vàng sẫm rất quánh, lượng từ 40-60ml: là mật của túi mật.
    + Mật C tiếp theo mật B, màu vàng nhạt hơn và ít quánh hơn mật B, đó là mật từ gan xuống.
    + Bệnh lý:
    + Không lấy được mật: hoặc ống thông chưa vào tới tá tràng: muốn biết có vào đến tá tràng hay còn trong dạ dày ta kiểm tra bằng giấy quỳ (nếu có phản ứng kiềm: đã vào đến tá tràng; phản ứng toan: còn ở trong dạ dày), có thể kiểm tra bằng Xquang nếu có điều kiện.
    Hoặc ống thông đã vào đến tá tràng nhưng đường mật bị cản trở, mật không xuống được: u đầu tuỵ, sỏi mật, u đường mật..
    + Không có mật B: Túi mật bị loại do teo hoặc do sỏi làm tắc ống túi mật.
    + Khi hút mật có thấy bùn mật hoặc những sỏi nhỏ: gặp trong sỏi đường mật.
    + Bằng phương pháp thông tá tràng định phút và các xét nghiệm vi mô, sinh hoá của nước mật ta chẩn đoán được sự hoạt động chức năng của đường mật, túi mật và nguyên nhân của những bệnh gan mật.
    Bộ máy tiêu hoá gồm rất nhiều bộ phận khác nhau, nằm sâu trong ổ bụng các triệu chứng rất phức tạp. Muốn khám phát hiện các triệu chứng cần phải hỏi kỹ về chức năng, thăm khám tuần tự từng phần một hệ thống, khám tỉ mỉ cẩn thận. Bằng cách kết hợp các triệu chứng lâm sàng ta có thể chẩn đoán một số lớn bệnh về tiêu hoá, tuy nhiên để chẩn đoán chính xác và chi tiết hơn, để phát hiện trong một số trường hợp khó ta cần kết hợp với các phương pháp cận lâm sàng.
    Lần sửa cuối bởi songchungvoi_HIV, ngày 13-11-2013 lúc 22:23.

  3. Những thành viên đã cảm ơn songchungvoi_HIV cho bài viết này:

    Hon5thang (25-11-2013)

  4. #3
    Thành viên năng động nhiệt tình.
    Ngày tham gia
    18-07-2009
    Giới tính
    Nam
    Đến từ
    Tp.HCM
    Bài viết
    47,923
    Cảm ơn
    2,578
    Được cảm ơn: 11,968 lần
    CÁC PHƯƠNG PHÁP KHÁM CẬN LÂM SÀNG ỐNG TIÊU HOÁ

    Cũng như trong các bệnh thuộc các bộ phận khác, các phương pháp lâm sàng để thăm khám các bệnh tiêu hoá có thể giúp cho chúng ta chẩn đoán trong một phạm vi nhất định: chẩn đoán lâm sàng của chúng ta có thể đúng nhưng không chính xác, không đầy đủ. Các phương pháp cận lâm sàng nhất là phương pháp hiện đại sẽ giúp chúng ta đi sâu hơn trong chẩn đoán, cung cấp cho chúng ta những tài liệu thật chính xác, tỉ mỉ để tiên lượng, hoặc để hướng cho điều trị và phòng ngừa biến chứng được đúng đắn hơn.
    Các phương pháp thăm dò cận lâm sàng ống tiêu hoá càng ngày càng phát triễn thêm nhiều nhờ:
    - Các thành tựu khoa học về sinh hoá và phóng xạ.
    - Các phát minh về Xquang và điện ảnh.
    - Sự sáng chế ra các ống soi và các công cụ sinh thiết. Có thể chia làm 4 loại phương pháp:
    · Các phương pháp thăm dò hình thái.
    + Xquang.
    + Chụp “ xinê”.
    + Soi nội tạng.
    · Các phương pháp thăm dò giải phẫu bệnh học:
    + Xét nghiệm tế bào học.
    + Sinh thiết niêm mạc.
    · Các phương pháp thăm dò nguyên nhân: Xét nghiệm ký sinh vật, và vi khuẩn.
    · Các phương pháp thăm dò chức năng: chủ yếu thăm dò chức năng dạ dày và ruột.
    1. Các phương pháp thăm dò hình thái.

    1.1. Xquang
    - Chiếu Xquang: có thể giải quyết ngay chẩn đoán trong một số trường hợp cấp cứu, chủ yếu đau bụng cấp với các hình ảnh:
    · Liềm hơi: triệu chứng đặc hiệu của thủng dạ dày hay thủng ruột.
    · Nhiều mức hơi và nước: triệu chứng đặc hiệu của tắc ruột.
    Đây là một phương pháp chẩn đoán thuận lợi vì đơn giản, nhanh chóng ít tốn kém nhưng vai trò rất hạn chế vì giải quyết được trong các trường hợp cấp cứu nói trên, và cũng không ghi lại được các hình ảnh ấy để lưu trữ cho nên cần phải chụp Xquang không thuốc cản quang.
    - Chụp Xquang không thuốc cản quang: ngoài giá trị có thể ghi để lưu lại các hình ảnh mà chiếu Xquang đã phát hiện được trong các trường hợp cấp cứu nói trên, phương pháp này còn có thể phát hiện được một số trường hợp mà tác nhân gây bệnh có thể cản được quang tuyến như:
    · Hầu hết các sỏi trong hệ thống tiết niệu.
    · Một số sỏi mật.
    · Một số sỏi tuỵ hoặc vết vôi hoá ở tuỵ.
    Để nhân định hình thái của mặt bên trong ống tiêu hoá, người ta đã dùng các thuốc cản quang đưa vào ống tiêu hoá trước khi chụp: đó là phương pháp, chụp Xquang có thuốc cản quang.
    - Chụp Xquang có thuốc cản quang: thuốc cản quang dùng để chụp ống tiêu hoá chủ yếu có hai thứ: barisunfat và bitmut, cho vào ống tiêu hoá bằng:
    · Đường uống: để chụp tất cả các phần của ống tiêu hoá: chụp thực quản, chụp dạ dày tá tràng, chụp ruột, chụp đại tràng (còn gọi là “ bữa ăn barit”).
    · Đường hậu môn: thụt chất cản quang vào đại tràng sau khi đã thụt tháo phân (còn gọi là “ thụt Barit”) để chụp đại tràng.
    Cả hai đường uống và đường hậu môn có thể áp dụng trên cùng một người bệnh để chụp đại tràng trong trường hợp u đại tràng khá to hoặc hẹp đại tràng khá khít làm cho barit không qua được phía bên kia: kết hợp cả hai đường sẽ giúp ta nhận định mức độ lan rộng của khối u hay của ống hẹp trong ống đại tràng.
    Dưới đây chúng tôi giới thiệu chỉ định và giá trị chẩn đoán của phương pháp này ở mỗi phần của ống tiêu hoá.
    · Thực quản: chiếu rồi chụp thực quản với barit là phương pháp đơn giản nhất để kiểm tra thực quản, để phát hiện các hình thái bất thường của chính thực quản, hoặc các biến dạng của thực quản do bệnh lý của các phủ tạng lâm cận (hạch trung thất, khí quản, tim, màng phổi và phổi). Các hình thái bất thường này của thực quản cũng như các biến dạng do bệnh lý của tạng lân cận thường chỉ thể hiện trên lâm sàng bằng các triệu chứng chức năng gì cả và thầy thuốc cũng không thể nào phát hiện được trân lâm sàng vì không có triệu chứng thực thể, cho nên chỉ có một cách phát hiện các tổn thương này là bằng Xquang rồi sau đó soi thực quản.
    Trên lâm sàng, phương pháp Xquang thực quản thường được chỉ định và rất có giá trị chẩn đoán trong các trường hợp:
    + Bệnh lý thực quản: u lành hoặc ác tính, hẹp thực quản, giãn thực quản túi phình thực quản.
    + U trung thất (u hạch, u khí quản): để nhân định quan hệ của khối u với thực quản.
    + Bệnh tim: nhất là hẹp van hai lá. Để phát hiện hình ảnh thực quản bị đè bởi nhĩ trái to, triệu chứng quan trọng của hẹp van hai lá.
    + Tăng áp lực cửa: để phát hiện các tĩnh mạch thực quản bị giãn.
    + Lỗ rò thực quản và khí phế quản: Barit nuốt vào chảy cả vào khí quản qua lỗ rò sẽ xác định chẩn đoán.
    · Dạ dày tá tràng: đến hay chụp Xquang dạ dày và tá tràng vẫn là phương pháp thăm dò hình thái chắc chắn nhất và đơn giản nhất để kiểm tra dạ dày và tá tràng cho nên bắt buộc phải được chỉ định trong tất cả các trường hợp nghi ngờ có bệnh lý ở hai phần này của ống tiêu hoá.
    Chiếu dạ dày tá tràng sau khi uống barit hoàn toàn không có giá trị chẩn đoán bắt buộc phải được chỉ định trong tất cả các trường hợp nghi ngờ có bệnh lý ở hai phần này của ống tiêu hoá.
    Chiếu dạ dày tá tràng sau khi uống Barit hoàn toàn không có giá trị chẩn đoán bắt buộc phải kết hợp với chụp và chụp hàng loạt vì các hình ảnh bất thường (ổ loét, nốt đọng thuốc, hình lồi biến dạng của hành tá tràng hoặc các đoạn cứng đờ của bờ cong nhỏ) chỉ có giá trị bệnh lý khi các hình ảnh đó vẫn tồn tại trên tất cả các phim chụp hàng loạt.
    · Ngoài các trường hợp nghi ngờ có bệnh lý ở dạ dày tá tràng, người ta còn chỉ định chụp dạ dày tá tràng trong các trường hợp u ở bụng, nhất là các u ở thượng vị hoặc ở 2 hạ sườn để nhận định quan hệ về vị trí của khối u đó với dạ dày hoặc tá tràng.
    Ngoài ra người ta còn chụp khung tá tràng để chẩn đoán các u đầu tuỵ: trong u đầu tuỵ, khung tá tràng sẽ bị giãn rộng. Trên thực tế triệu chứng Xquang này của u đầu tuỵ thường đến muộn, vì một u đầu tuỵ muốn làm giãn rộng được khung tá tràng thường phải to lắm, nghĩa là đã tiến triển nhiều không còn khả năng phẫu thuật có kết quả: cho nên hiện nay, để chẩn đoán các u đầu tuỵ cũng như các bệnh lý khác của tuỵ, người ta thường dùng phương pháp chụp tá tràng giảm trương lực.
    · Ruột non: đến nay ruột non vẫn là một đoạn khó kiểm tra hình thái nhất của ống tiêu hoá vì hình ảnh Xquang của các khúc ruột chồng chất lên nhau. Tuy vậy người ta vẫn cố gắng chụp xquang ruột non bằng cách cho người bệnh uống từng ngụm nhỏ Barit hoặc đưa ngay barit vào tá tràng qua ống thông Einhorn theo dõi qua từng đoạn ruột non để chụp khi có hình ảnh nghi ngờ. Với cách làm như vậy nên phương pháp này đòi hỏi rất nhiều thời gian (từ 3 đến 8 giờ) mà chỉ cung cấp được những tài liệu triệu chứng rất nghèo nàn, ít có giá trị chẩn đoán, cho nên phương pháp chụp Xquang ruột non ít được sử dụng và nói đến.
    · Đại tràng: chụp đại tràng có barit là phuơng pháp độc nhất để thăm dò hình thái đại tràng ngoài đoạn sigma và trự c tràng người ta còn có thể thăm dò thêm được bằng ống soi. Cho nên phương pháp này được chỉ định trong:
    + Tất cả các trường hợp nghi ngờ có bệnh lý ở đại tràng nhất là các khối u đại tràng ( ví dụ như u hồi manh tràng do ung thư, do ho lao hoặc amip).
    + Các trường hợp u ở bụng: để nhận định quan hệ về vị trí của khối u đó với đại tràng.
    1.2. Chụp Xinê.
    Các phương pháp Xquang nói trên chỉ ta thấy được hình thái ống tiêu hoá một cách “ tĩnh “, không cho ta những hình ảnh “động” và nhất là xquang ruột non thường ít cung cấp cho ta những hình ảnh có giá trị chẩn đoán tốt, cho nên người ta đã áp dụng điện ảnh trong thăm dò ống tiêu hoá: đó là phương pháp chụp xinê ống tiêu hoá, tiến hành bằng cách cho người bệnh uống barit rồi bằng máy quay phim đặc biệt kết hợp với Xquang người ta chụp xinê chiếu sự hoạt động, sự co bóp của ống tiêu hoá đã đầy chất barit ấy và sau đó đem chiếu các cuộn phim ấy trên màn ảnh để theo dõi lại.
    Đây là một phương pháp thăm dò hiện đại, chưa áp dụng được một cách rộng rãi và nhiều để có thể tổng kết và đánh giá giá trị của nó một cách chính xác.
    Các phương pháp Xquang nói trên và cả phương pháp chụp xinê, cho ta thấy được hình ảnh các phủ tạng, nhưng hình ảnh đó có khi rất khó phân biệt giữa một bệnh nọ với một bệnh kia ( ví dụ giữa loét dạ dày thường với loét dạ dày ung thư hoá) một u ác tính với một u lành tính, cho nên người ta đã sáng chế ra các ống soi để nhìn tận mắt các hình ảnh bệnh lý, đấy là phương pháp soi nội tạng.
    1.3. Soi nội tạng.
    Người ta áp dụng trên lâm sàng một cách khá rộng rãi các phương pháp soi thực quản, soi dạ dày, soi trực tràng và đại tràng, soi hậu môn.
    Các ống soi nội tạng đó có khác nhau về kiến trúc để thích hợp với từng bộ phận nhưng căn bản đểu gồm có hai phần: ống kính và đèn.
    Sự phát triển của các máy ảnh đã bổ sung thêm cho các phương pháp soi nội tạng: bằng một hệ thống Flash rất nhỏ đưa vào cùng với ống soi và một máy ảnh lắp ở ngoài ống soi, người ta có thể chụp các tổn thương nhìn thấy khi soi để có những tài liệu cụ thể, để:

    • Hội chẩn, tránh sự chủ quan của một người soi.
    • Theo dõi sự tiến triển của các tổn thương nhìn thấy.
    • Làm tài liệu nghiên cứu khoa học.

    - Soi thực quản: là một phương pháp rất tốt vì có thể kiểm tra bằng mắt một cách rõ ràng toàn bộ ống thực quản, thường được chỉ định trong các trường hợp:
    · Có vật lạ ở thực quản (hóc xương, hóc đồng xu…): vừa là phương pháp chẩn đoán, vừa là phương pháp điều trị, vì khi nhìn thấy được vật lạ đó có thể gắp lấy ra.
    · U thực quản: thường kết hợp với sinh thiết để xét nghiệm cơ thể bệnh học.
    · Tăng áp lực cửa: để phát hiện các tĩnh mạch thực quản bị giãn.
    · Biến dạng thực quản: hẹp thực quản, giãm thực quản, túi phình thực quản…
    Tai biến duy nhất có thể xảy ra là thủng thực quản gây viêm trung thất, nhưng thật ra tai biến này rất hiếm vì ống soi được đưa vào thực quản dưới sự kiểm tra của mắt.
    Và cũng để đề phòng tai biến đó cho nên chống chỉ định tuyệt đối của phương pháp này là viêm thực quản cấp do uống axit hoặc các chất gây lỏng.
    - Soi dạ dày: có ba loại ống soi dạ dày.
    · Ống cứng (toàn bộ ống soi đều bằng kim loại): hiện không dùng nữa vì làm đau người bệnh và dễ gây tai biến ở thực quản.
    · Ống nửa cứng, nửa mềm (ống Wold Schiudler): phần ống soi nằm trong thực quản bằng cao su mềm, chỉ có phần ở ngoài thực quản mới bằng kim loại. Hiện được áp dụng ở hầu khắp các chuyên khoa tiêu hoá, rất ít gây tai biến và ít đau cho người bệnh.
    · Ống mềm (Fibroscope): mới phát sinh trong những năm gần đây, toàn bộ ống soi bằng chất dẻo, mềm nên càng ít đau, càng ít gây tai biến cho người bệnh.
    Ngoài ra còn có loại ống soi có kèm theo bộ phận sinh thiết để sinh thiết niêm mạc dạ dày hoặc khối u trong dạ dày dưới sự kiểm tra của mắt: đây là các ống soi Beneđic.
    Soi dạ dày thường được chỉ định trong các trường hợp:
    · Loét dạ dày, để theo dõi sự chuyền biến ung thư hoá và phát hiện các loét nhỏ hoặc các ổ loét ở mặt trước và mặt sau dạ dày mà Xquang có thể bỏ qua.
    · Ung thư dạ dày.
    · Pôlip dạ dày.
    · Viêm dạ dày mạn tính.
    · Ngoài ra còn một số tác giả còn chỉ định trong chảy máu dạ dày: soi dạ dày nguy không còn chảy máu để phát hiện hiện nguyên nhân và ổ chảy máu. Nhưng đa số tác giả khuyên không nên, vì rất nguy hiểm có thể làm chảy máu lại hoặc tăng lên.
    Đây cũng chính là phương pháp chẩn đoán tốt vì nhìn thấy tổn thương nhưng tác dụng ít nhiều bị hạn chế vì có những “ vùng mù” ở dạ dày mà ống soi không nhìn thất được.
    Các biến cố có thể xảy ra trong phương pháp này là:
    · Thủng thực quản: gây viêm trung thất rất nặng có thể làm chết người bệnh. Biến cố này xảy ra thường hơn là khi soi thực quản vì ống soi dạ dày được đưa vào thực quản một cách “ mù” không dưới sự kiểm tra của mắt như khi soi thực quản. Để phòng tai biến sau này cần phải:
    + Kiểm tra thực quản bằng chiếu Xquang có barit trước khi soi để phát hiện các biện dạng của thực quản, u thực quản, hẹp thực quản, túi phình thực quản, thực quản bị đè bởi nhĩ trái to của hẹp van hai lá. Các biến dạng đó là những chống chỉ định của soi dạ dày.
    + Đẩy nhẹ chậm rãi: khi đưa ống soi thực quản, không nên đẩy mạnh nếu thấy có cản trở.
    · Ngất: ít xảy ra, chỉ gặp khi soi cho người bệnh đang khó thở, cho nên các trường hợp khí phế thủng, hen phế quản đang cơn khó thở và suy tim cũng là những chống chỉ định của phương pháp này.
    - Soi trực tràng và đại tràng sichma, soi hậu môn: cũng như soi thực quản, các phương pháp này có giá trị chẩn đoán rất tốt vì có thể kiểm tra bằng mắt toàn bộ niêm mạc trực tràng, đại tràng sich ma hoặc hậu môn, cho nên thường được áp dụng trong các trường hợp:
    · Bệnh lý trực tràng ( u, hẹp, viêm) thường kết hợp với sinh thiết.
    · Chảy máu trực tràng và hội chứng kiết lị, để tìm nguyên nhân và ổ chảy máu (ví dụ: trĩ trong) hoặc ổ loét của kiết lỵ.
    · Các phương pháp soi này không gây tai biến gì cả vì cũng như soi thực quản, các ống soi này được đưa vào trực tràng và đại tràng sichma dưới sự kiểm soát của mắt cho nên không có chỉ định gì đáng lưu ý.
    Các phương pháp soi nội tạng tuy có chính xác hơn Xquang và nhìn được tận mắt bằng các tổn thương, nhưng dù sao cũng không thể tránh khỏi sai lầm vì những hình ảnh nhìn thấy rất khó cho ta quyết định được chẩn đoán một cách chắc chắn. Cho nên cần phải có thêm các phương pháp thăm dò giải phẫu bệnh học.
    2. CÁC PHƯƠNG PHÁP THĂM DÒ NGUYÊN NHÂN.

    Các phương pháp giải phẫu bệnh học nói trên cũng là một phương pháp thăm dò nguyên nhân vì có thể phát hiện được tổn thương lành tình hay ác tính (ung thư).
    Trong phần này, chúng tôi muốn nói đến các xét nghiệm vi khuẩn, ký sinh vật, những tác nhân thông thường gây bệnh tiêu hoá, nhất là bệnh đường ruột ở nước ta.
    Chủ yếu việc xét nghiệm vi khuẩn và ký sinh vật là ở phân.
    2.1. Xét nghiệm vi khuẩn.
    Cần phải cấy phân mới có giá trị chính xác.
    Để nắm được chắc hơn tình trạng nhiểm khuẩn ở đoạn nào của ruột, gần đây người ta phát minh ra những ống thông đặc biệt để có thể lấy các chất ở từng đoạn ruột đem ra ngoài mà không bị pha lẫn với các chất ở các đoạn ruột khác hoặc ở tá tràng hay dạ dày mà ống thông phải đi qua.
    2.2. Xét nghiệm ký sinh vật.
    Để thật chính xác, cần phải:
    - Sử dụng phương pháp “ phong nhã”.
    - Đếm trứng ký sinh vật: để đánh giá mức độ nặng nhẹ của sự nhiễm ký sinh vật và theo dõi được chính xác tác dụng của điều trị tẩy ký sinh vật.
    - Riêng đối với Amip, cần phải lấy phân soi tươi ngay sau khi người bệnh ỉa ra hoặc quết chất nhầy ngay tại ổ loét nhìn thấy khi soi trực tràng và đem soi ngay.
    3. CÁC PHƯƠNG PHÁP THĂM DÒ CHỨC NĂNG.

    Toàn bộ ống tiêu hoá cùng với các tuyến phụ thuộc tuyến nước bọt (răng, tuỵ, gan…) đều có trách nhiệm cộng đồng trong việc tiêu hoá các thức ăn để đi đến kết quả cuối cùng là biến các thức ăn đó thành:
    - Các chất có thể hấp thụ được để ruột đưa vào cơ thể.
    - Các chất cặn bã không tiêu hoá và hấp thụ được sẽ được thải ra ngoài dưới hình thức phân.
    Cho nên để thăm dò chức năng của ống tiêu hoá nói chung việc nhận xét phân về đại thể cũng như về hoá học có thể cung cấp những yếu tố để đánh giá chức năng đó một cách đại cương và gợi ý chỉ điểm rối loạn đó thuộc phần nào ống tiêu hoá.
    Nhưng muốn đánh giá chính xác rối loạn đó thuộc phần nào của ống tiêu hoá, cần tiến hành những phương pháp thăm dò chức năng đặc biệt cho từng phần.
    Cho nên trong phần này, chúng tôi sẽ trình bày:
    - Nhận xét phân.
    - Thăm dò chức năng dạ dày.
    - Thăm dò chức năng ruột.
    Chúng tôi không đề cập đến thăm dò chức năng thực quản vì thực quản chỉ là một ống mà nhiệm vụ chính là đưa thức ăn từ thực quản xuống dạ dày chứ không có chức năng tiêu hoá. Thăm dò chức năng các tuyến phụ thuộc gan, tuỵ) sẽ trình bày trong bài sau.
    3.1. Nhận xét phân.
    Chúng tôi không nói đến nhân xét thô đại vì đã trình bày ở trên trong bài “ khám lâm sàng bộ máy tiêu hoá” mà chỉ nói đến các xét nghiệm hoá học.
    -Xét nghiệm đính tính: Phát hiện sự có mặt của một số thành phần phân như:
    · Amidon, bằng lugol (bình thường không có).
    · Mỡ, bằng Sudan III (bình thường chỉ có rất ít).
    · Thờ ơ, soi kính hiển vi (bình thường chỉ có rất ít).
    Sự có mặt của các thành phần đó ở phân đều chứng tỏ tình trạng bệnh lý của bộ máy tiêu hoá, nhất là của tuỵ tạng.
    - Xét nghiệm định lượng. Nhưng muốn chính xác hơn người ta làm “ blăng tiêu hoá’ nghĩa là cho người bệnh ăn một số lượng nhất định về protit hoặc lipit, sau đó định lượng các chất ấy đã thải ra ở phân; bình thường số lượng lipit được thải ra không quá 5% số lượng ăn vào.
    Gần đây, các phương pháp hiện đại đã áp dụng đồng vị phóng xạ trong bilăng: dùng triolein và axit oleic đánh dấu với I 123, hoặc abumin và polyvinyl-pyrolidon đánh dấu với I 123 cho người bệnh ăn rối định lượng số phóng xạ được thải ra ở phân.
    3.2. Thăm dò chức năng dạ dày.
    Chức năng của dạ dày trong sinh học tiêu hoá chủ yếu nhờ ở:
    · Chất pepsin.
    · Độ toan của dịch dạ dày.
    · Sự co bóp nhào trộn làm nhuyển thức ăn trước khi đưa xuống ruột.
    - Đánh giá khả năng co bóp của dạ dày: bằng một máy ghi trên biểu đồ cường độ co bóp của dạ dày.
    Phương pháp này hiện nay ta được sử dụng trong lâm sàng, ngay cả các chuyên khoa tiêu hoá.
    - Đánh giá khả năng tiết pepsin: pepsin do tế bào chính của niêm mạc dạ dày tết ra dưới dạng không hoạt động (pepsinnogen) được chuyển thành pepsin dưới tác dụng của C1H, Pepsin thấm một ít (1%) vào máu và thải tiết ra nước tiểu dưới dạng uropepsin, cho nên người ta có thể đánh giá khả năng tiết pepsin bằng:
    · Định lượng pepsin ở dịch vị.
    · Định lượng pepsin ở máu: bình thường 150-450 đơn vị.
    · Định lượng urêpepsin ở nước tiểu.
    Các phương pháp này ít được áp dụng trong lâm sàng, thường thì áp dụng định lượng urepepsin ở nước tiểu. Để phân biệt nguyên nhân chảy máu tiêu hoá do loét dạ dày tá tràng hay xơ gan: nếu do loét dạ dày tá tràng, urepepsin sẽ tăng nhiều trái lại do xơ gan.
    Áp dụng thông thường nhất ở lâm sàng là đánh giá mức độ toan kiềm của dịch dạ dày.
    - Đánh giá mức độ toan- kiềm của dịch dạ dày: dịch dạ dày có một độ toan nhất định do sự thăng bằng của:
    · Tiết kiềm bởi tế bào phủ niêm mạc (cellules de revêtement muqueux) cùng với tế bào nhầy sáng (cellules mucoides claires).
    · Tiết toan bởi tế bào quây (cellules bordantes).
    Trong trường hợp bệnh lý do viêm teo dạ dày, sự thăng bằng đó bị rối loạn và dịch dạ dày bị kiềm tính do hiện tượng viêm đã làm tăng sự tiết chất nhầy kiềm và đã làm tổn thương các tế bào quây gây giảm sự tiết toan.
    Ngược lại, trong loét dạ dày tá tràng, nhất là trong loét tá tràng, độ toan của dịch dạ dày tăng lên nhiều do:
    · Sự tăng hoạt động của các tuyến tiết toan dưới tác động của chất gastrin ở hang vị..
    · Hoặc do cường tính của dây thần kinh phế vị kích thích qua mức các tuyến tiết toan.
    Do sự đánh giá độ toan của dịch dạ dày đóng một vai trò quan trọng trong bệnh lý dạ dày: nếu dịch dạ dày vô toan, người ta cần định lượng kiềm dư để đánh giá mức độ kiềm tính nhiều hay ít của dịch dạ dày.
    Vì sự tiết toan của dịch dạ dày phụ thuộc vào khả năng hoạt động của tuyến và vào dây thần kinh phế vị nên người ta có những phương pháp thăm dò riêng cho mỗi yếu tố.
    Thăm dò khả năng hoạt động của tuyến: bằng cách định lượng dịch dạ dày và độ toan sau khi kích thích tuyến bằng cafein (nghiệm pháp cafein ) hoặc bằng Histamin (nghiệm pháp histamin).
    + Nghiệm pháp cafein: sau khi người bệnh nuốt ống thông Einhorn đến dạ dày và hút dịch dạ dày ra hai lần khác nhau 15 phút, qua ống thông bơm vào dạ dày 0,2g cafein cùng với 3 ml nước rồi sau đó cứ 15 ph1ut lại hút dịch dạ dày mộ lần để định số lượng dịch dạ dàyvà độ toan,tất cả 6 lần (1 giờ rưỡi) hay 8 lần (2 giờ).
    Phương pháp này hiện nay ít được dùng vì ít giá trị, không kích thích được tối đa các tuyến dịch vị.]
    + Phương pháp Histamin: là một phương pháp kinh điển đã biết từ lâu hiện vẫn giữ nguyên vai trò quan trọng của nó. Tiến hành cũng như nghiệm pháp cafein nhưng đáng lẽ bơm cafein vào dạ dày thì tiêm histamin clohydrat ½ mg vào dưới da rồi cũng 15 phút lấy dịch dạ dày một lần, hút tất cả 8 lần (2 giờ). Bình thường sau 2 giờ sau histamin tổng số dịch dạ dày là 160ml, tổng số CLH tự do là 13mEq đậm độ CLH tự do tối đa là 94,5 mEq/l (số liệu Việt Nam, theo bộ môn ngoại, trường Đại Học Y Khoa).
    Gần đây, người ta đã bắt đầu áp dụng nghiệm pháp histamin liều cao.
    Đánh giá vai trò của thần kinh phế vị: bằng cách đo dịch dạ dày ban đêm và định lượng dịch dạ dày và CLH sau khi kích thích bằng Insulin (nghiệm pháp Insulin).
    + dịch dạ dày ban đêm( còn gọi là dịch dạ dày cơ bản): cho người bệnh nuốt ống thông Einhorn và hút dịch dạ dày liên tục từ 8 giờ tối đến 3 giờ sáng hôm sau: bình thường tổng số dịch dạ dày ban đêm là 500ml và tổng số CLH là 10-20mEq.
    + Nghiệm pháp insulin: tiến hành như nghiệm pháp histamin nhưng đáng lẽ tiêm histamin thì tiêm 10 đơn vị insulin vào tĩnh mạch (tất nhiên phải định lượng glucoza máu trước khi làm, vì chống chỉ định cho các người bệnh đã bị hạ glucoza máu). Bình thường kết quả cũng gần giống như trong nghiệm pháp histamin.
    Các phương pháp đánh giá toan kiềm dịch dạ dày nói trên thường áp dụng và có giá trị chẩn đoán nhiều nhất trong:
    + Chẩn đoán viêm teo dạ dày: vô toan kháng histamin (nghĩa là mặc dù kích thích với histamin, dịch vị vẫn kiềm tính, có giá trị xác định chẩn đoán.
    + Chẩn đoán cơ chế đa toan của loét tá tràng: do tuyến dạ dày ( nghiệm pháp histamin rất đa toan đa tiết) hay do cường tinh phế vị (nghiệm pháp insulin rất đa toan đa tiết) để đặt chỉ định phẫu thuật (cắt đoạn dạ dày hay cắt dây phế vị hay cả hai) cho thích đáng.
    + Chẩn đoán hội chứng Zollnger Ellison: Dịch dạ dày rất nhiều và rất toan (dịch dạ dày ban đêm trên 2000ml và trên 100 mEq CLH tự do).
    3.3. THĂM DÒ CHỨC NĂNG RUỘT.
    Ruột non có nhiệm vụ chủ yếu là hấp thụ các thức ăn đã qua quá trình tiêu hoá. Chỗ cặn được đưa dần xuống đại tràng và đại tràng chỉ có nhiệm vụ bớt nước lại và dồn pâhnt hành khuôn ngoài nhiệm vụ hoàn thành sự tiêu hoá xenluloza.
    Cho nên thăm dò chức năng ruột chủ yếu là thăm dò chức năng hấp thụ của ruột non.
    - Thăm dò khả năng hấp thụ protit, bằng:
    · Định lượng protein máu và điện đi.
    · Làm bilan protit bằng phương pháp kinh điển hay bằng đồng vị phóng xạ (anbumin hoặc polyvinylkyrolidon đánh dấu với I131).
    - Thăm dò khả năng hấp thụ lipit. Bằng
    · Định lượng lipit và cholesterol máu.
    · Định lượng b caroten ở máu làm bilan chất mỡ bằng phương pháp kinh điển hay bằng đồng vị phóng xạ (triclein hoặc axit oleic đánh dấu với I131)
    - Thăm dò khả năng hấp thụ lipit. Bằng:
    · Nghiệm pháp gây tăng glucoza máu với glucoza uống (xem cách thực hiện nghiệm pháp này trong chương nội tiết).
    Vì sự điều chỉnh glucoza máu còn bị chi phối bởi nhiều yếu tố khác (tuỵ tạng, gan, thượng thận), không phản ánh trung thực khả năng hấp thụ gluxit bởi ruột non nên hiện nay, để đánh giá khả năng của ruột, người ta dùng một loạt đường khác có tínhc hất đặc hiệu hơn, đó là D xyloza.
    · Nghiệm pháp Dxyloza: cho người bệnh uống 25g Dxyloza rồi tập trung nước tiểu trng 5 giờ sau để định lượng D xyloza (bình thường phải có 5 đến 6 g ở nước tiểu)và định lượng D xyloza ở máu sau hai giờ (bình thường phải có 35g%).
    - Thăm dò khả năng hấp thụ B12, axitfolic, Fe,Ca,… bằng định lượng các chất đó ở máy và nhất là đồng vị phóng xạ.

  5. Những thành viên đã cảm ơn songchungvoi_HIV cho bài viết này:

    Hon5thang (25-11-2013)

  6. #4
    Thành viên năng động nhiệt tình.
    Ngày tham gia
    18-07-2009
    Giới tính
    Nam
    Đến từ
    Tp.HCM
    Bài viết
    47,923
    Cảm ơn
    2,578
    Được cảm ơn: 11,968 lần
    ỈA CHÁY CẤP MẠN TÍNH

    Ỉa chảy là hiện tượng ỉa nhiều lần trong ngày, nhưng chủ yếu là phân nhão, lỏng hay nước. Độ rắn mềm trong phân do độ nước trong phân quyết định.
    Phân có 85% thành phần là nước thì nhão.
    Phân có 88% thành phần là nước thì lỏng.
    Và có 90% thành phần là nước thì phần lỏng như nước.
    Iả chảy là một triệu chứng do rất nhiều nguyên nhân phức tạp gây nên, muốn nắm được các nguyên nhân đó, cần phải biết sự hoạt động bình thường của quá trình tiêu hoá và những rối loạn gây nên ỉa chảy.
    I. NHỮNG CƠ SỞ SINH LÝ CỦA QUÁ TRÌNH TIÊU HOÁ.

    1. Tiêu hoá bình thường.

    Tiêu hoá bình thường gồm 4 quá trình:
    1.1. Tiết dịch: dạ dày tiết dịch dạ dày, gan tiết mật, tuỵ tạng tiết dịch, tuỵ và ruột non tiết các men ruột.
    1.2. Co bóp nhu động: sự co bóp của dạ dày, ruột nhằm trộn lẫn thức ăn với dịch thiêu hoá và đưa xuống dưới.
    1.3. Tiêu hoá: là qua trình tác dụng của các dịch tiêu hoá,các men và vi khuẩn nhằm phân giải thức ăn: HCl và pepsin của dạ dày: trypsin, amylaza, lipaza của tuỵ tạng, sắc tố mật, muối mật của gan: các men enterokinaza, amino polipeptidaza, nucleaza, manfoza, sacaraza… của ruột non và vai trò của những loại vi khuẩn cộng sinh trong đại tràng, phân giải xenluloza thành glucoza.
    1.4. Hấp thụ: sau khi tiêu hoá, thức ăn được phân giải sẽ được hấp thụ qua ruột: phần lớn các thành phần của protit, gluxit, lipit, các chất điện giải vitamin được hập thụ ở hồng tràng, còn được hập thụ lại ở đại tràng và làm cho phân đóng khuôn lại.
    Để điều hoà 4 quá trình trên, hệ thống phó gao cảm (giây thần kinh X) và giao cảm đóng vai trò quan trọng.
    - Phó giao cảm: tăng nhu động và tiết dịch.
    - Giao cảm: giảm nhu động và tiết dịch.
    Khi các quá trình trên bị rối loạn sẽ gây nên ỉa chảy, vậy sự rối loạn đó như thế nào?
    2. Những rối loạn tiêu hoá gây ỉa chảy.

    2.1. Tăng tiết dịch. Khi sự tiết dịch tăng nhiều, vượt quá khả năng hấp thụ có thể gây nên ỉa chảy. Các yếu tố kích thích như nhiễm khuẩn, nhiễm độc thường gây nên tăng tiết dịch và đó là phản xạ tự vệ nhằm loại trừ kích thích ra ngoài.
    2.2. Tăng nhu động: ỉa chảy có thể là hậu quã của việc tăng nhu động, co bóp: bởi vì tăng co bóp làm cho thức ăn qua ruột nhanh chóng không kịp tiêu hoá và hấp thụ. Các kích thích nhiểm khuẩn, nhiễm độc và rối loạn tâm thần thần kinh làm tăng co bóp.
    2.3. Tiêu hoá kém. Khi tác dụng của các dịch tiêu hoá, các men, vi khuẩn giảm đi, thức ăn được hấp thụ sẽ kém đi và hậu quả dẫn đến ỉa chảy. Tiêu hoá kám có thể do:
    - Thiếu dịch tiêu hoá, cắt dạ dày, ruột…
    - Thiếu men, viêm tuỵ, tắc mật…
    - Thiếu vi khuẩn ( dùng quá nhiều kháng sinh diệt hết vi khuẩn cộng sinh ở ruột…).
    - Tiêu hoá kém còn có thể do thức ăn được chuyển đi quá nhanh chưa kịp tiêu hoá (tăng nhu động) và ta gọi là sự thiếu thời gian tiêu hoá.
    2.4. Hấp thụ kém: ỉa chảy có thể là hậu quả của thức ăn được hập thụ ít hoặc không được hấp thụ. Kém hấp thụ có thể do:
    - Thành của ruột bị tổn thương ( viêm, ung thư…).
    - Hoặc là hậu quả quá trình trên (tăng tiết dịch,tăng nhu động, tiêu hoá kém).
    Có thể tóm tắt sự rối loạn của quá trình tiêu hoá trong sơ đồ sau:
    Thiếu dịch men, vi khuẩn ® Tiêu hoá kém ® Hấp thụ kém ® Ỉa chảy
    Thiêu thời gian (tăng co bóp, tăng tiết dịch)

    Trên đây là cơ chế sinh bệnh của ỉa chảy, córất nhiều nguyên nhân tác động lên các cơ chế đó, muốn tìm hiểu ta cần phải tiến hành hỏi bệnh, thăm khám và làm các xét nghiệm cần thiết.
    II. KHÁM XÉT MỘT NGƯỜI BỆNH ỈA CHẢY.

    1. Hỏi bệnh.

    1.1. Hỏi về tính chất ỉa chảy.
    1.1.1. Hoàn cảnh: xuất hiện của ỉa chảy: Rất quan trọng khi nguyên nhân là nhiễm khuẩn, nhiễm độc, dùng thuốc hoặc sau phẫu thuật về tiêu hoá…
    1.1.2. Sự bắt đầu cuảa ỉa chảy: đột ngột hay từ từ.
    1.1.3. Số lần đại tiện: ỉa chảy cấp có khi tới hàng trăm lần trong ngày. Ỉa chảy mạn tính thường ít lần hơn.
    1.1.4. Về tính chất của phân: cần kết hợp chặt chẽ giữa hỏi và xem trực tiếp phân.
    1.2. Các rối loạn khác về tiêu hoá và toàn thân.
    2.1.1 Buồn nôn, nôn.
    2.1.2 Đau bụng, đau quặn, đau hậu môn, mót rặn.
    2.1.3 Aên kém, sợ mỡ.
    2.1.4 Sốt.
    2.1.5 Các biểu hiện về nhiễm khuẩn, nhiễm độc, suy nhược…
    2. Khám lâm sàng.

    2.1. Khám phân. Là khâu quan trọng bậc nhất đối trong quá trình khám đối với người bệnh ỉa chảy.
    2.2. Khám bộ máy tiêu hoá. Khám có hệ thống toàn bộ về tiêu, hoá không nên thăm trực tràng.
    2.3. Khám toàn thân: chú ý đến một số triệu chứng có liên quan đến nguyên nhân và hậu quả của ỉa chảy.
    2.3.1. Hội chứng nhiễm khuẩn: Số, lưỡi bẩn, mệt nhọc…
    2.3.2. Hội chứng nhiễm độc: tuỳ theo từng chất độc gây ỉa chảy có những biểu hiện khác nhau.
    2.3.3. Hội chứng mất nước và các chất điện giải: đây là hậu quả quan trọng nhất của ỉa chảy cấp, cần được xử trí kịp thời.
    - Khát nước, khô miệng và niêm mạc.
    - Mắt sâu, da nhăn nheo, chân tay lạnh.
    - Đái ít rồi không đái, sẽ gây tình trạng urê máu cao.
    - Chuột rút do thiếu Ca, toan máu do thiếu Na, rối loạn nhịp tim do thiếu K.
    Nếu tình trạng mất nước trầm trọng hơn sẽ dẫn tới:
    2.3.4. Hội chứng truỵ tim mạch:
    - Vã mồ hôi, lạnh chân tay.
    - Mạch nhỏ và nhanh.
    - Huyết áp hạ có khi không còn.
    Cần được xử trí kịp thời, nếu không thường d6ãn tới tử vong.
    2.3.5. Các hội chứng suy dinh dưỡng, thiếu máu, thếiu vitamin: thường là hậu quả của các loại ỉa chảy mạn tính.
    - Gầy rất nhiều, có thể phù.
    - Da khô hay bong vảy.
    - Lông tóc rụng nhiều…
    3. CÁC XÉT NGHIỆM.

    Ngoài các xét nghiệm thông thường, tuỳ theo mỗi nguyên nhân cần làm các xét nghiệm sau:
    3.1. Xét nghiệm phân: về hoá học, vi khuẩn và ký sinh vật, tổ chức tế bào.
    3.2. Các xét nghiệm thăm dò tiêu hoá: dịch dạ dày, dịch tuỵ, mật, sự hấp thụ của ruột.
    3.3. Các xét nghiệm đánh giá hậu quả của ỉa chảy; urê, các chất điện giải, prôtit trong máu, thể tích hồng cầu…
    3.4. Soi dạ dày, trực tràng, sinh thiết ruột non.
    3.5. Chụp đại tràng, ruột non…
    III. NGUYÊN NHÂN CỦA ỈA CHẢY.

    Đứng về mặt lâm sàng ta chia làm hai loại ỉa chảy cấp và ỉa chảy mạn tính.
    1. Các nguyên nhân gây ỉa chảy cấp tính.

    đối với ỉa chảy cấp, các nguyên nhân thường rõ ràng, dễ phát hiện:
    1.1. Nhiễm khuẩn.
    - Các loại vi khuẩn đường ruột như: phẩy khuẩn tả, trực khủan ly, trực khuẩn thương hàn, phó thương hàn, tụ cẩu khuẩn, một số virus đường ruột nói chung đều gây ỉa chảy kèm theo hội chứng nhiễm khuẩn, muốn chẩn đoán cần lấy phân.
    - Các loại ký sinh vật đường ruột, nhất là amip, cũng có thể gây ỉa chảy cấp.
    - Các bệnh nhiễm khuẩn khác cũng có thể gây ỉa chảy như cúm, sốt rét, viêm tai xương chũm.
    1.2. Nhiễm độc:
    - Thuỷ ngân: ỉa chảy kèm theo dấu hiệu viêm thận.
    - Asen: ỉa chảy, nổi mẩn và chảy máu ngoài da.
    - Nấm độc: dễ chẩn đoán vì người bệnh tự khai.
    - Tình trạng toan máu hoặc urê máu cao: ỉa chảy là phản ứng của cơ thể nhằm phải trừ urê qua đường tiêu hoá.
    1.3. Các nguyên nhân khác.
    - Do dị ứng: đối với những thức ăn gây dị ứng (dứa).
    - Do thuốc: do không chịu được thuốc, hoặc uống thuốc quá nhiều (Nasunfat,Mg sunfat…).
    - Do tinh thần: lo lắng, sợ hãi quá mức.
    2. CÁC NGUYÊN NHÂN GÂY ỈA CHẢY MẠN TÍNH.

    Ngược lại với ỉa chảy cấp tính, ỉa chảy mạn tính tiến triển kéo dài và có rất nhiều nguyên nhân khác nhau, nhiều khi khó phát hiện.
    2.1. Do nhiễm khuẩn và ký sinh vật:
    - Lao đại, tiểu tràng: thường xuất hiện sau lao phổi, có dấu hiệu nhiễm lao, đồng thời đau bụng, đại tiện nhiều lần phân nhão, ít khi lỏng. Xác định bằng cấy phân và chụp Xquang ruột.
    - Viêm đại tiểu tràng mạn tính: đau bụng, phân lúc lỏng, lúc táo, phân lẫn máu và mũi.
    - Ỉa chảy do giun mỏ, sán Lambli: soi thấy trong phân.
    2.2. Do rối loạn quá trình tiêu hoá và hấp thụ.
    - Thiếu dịch dạ dày sau cắt đoạn dạ dày: phân nhão, sống và có mùi chua thử dịch dạ dày lượng HCl rất thấp.
    - Thiếu dịch tuỵ (viêm tuỵ mạn tính): phân rất nhiều, bóng, láng mỡ soi kính còn nhiều hạt mỡ và thớ cơ trong phân.
    - Thiếu mật (tắc mật, xơ gan): phân nhạt màu, có mỡ.
    - Thiếu men tiêu hoá ở ruột non: sau phẫu thuật cắt bỏ một phần ruột non, lỗ rò của ruột non.
    - Thiếu vi khuẩn phân giải xenluloza thường do dùng nhiều kháng sinh loại tác dụng rộng (biomyxin, tetraxylin…) diệt hết vi khuẩn hoặc sau cắt bỏ đại tràng.
    2.3. Những bệnh có tổn thương thực thể.
    - Ung thư tiểu tràng, đại tràng: xác định bằng Xquang.
    - Pôlip đại tràng: xác định bằng soi và chụp Xquang.
    - Viêm trực tràng đại tràng, chảy máu và loét.
    - Bệnh viêm cuối hồi tràng (Crohn): xác định bằng Xquang.
    - Bệnh Sprue Whipple rất hiếm gặp.
    2.4. Những nguyên nhân khác.
    - Rối loạn nội tiết: Basedow, suy thượng thận.
    - Rối loạn thần kinh, tâm thần.
    Ỉa chảy là một triệu chứng do rất nhiều nguyên nhân gây nên, nó là kết quả của sự rối loạn các quá trình tiết dịch, co bóp, tiêu hoá và hấp thụ.
    Ỉa chảy cấp tính nguyên nhân thườgn do nhiễm khuẩn và hậu quả thường dẫn đến tình trạng mất nước, truỵ tim mạch, cần hết sức chú ý.
    Ỉa chảy mạn tính do rất nhiều nguyên nhân phức tạp gây nên, đòi hỏi phải thăm khám kỹ lưỡng, làm xét nghiệm phối hợp để chẩn đoán. Hậu quả của ỉa chảy mạn tính thường dẫn đến tình trạng suy dinh dưỡng toàn thân.

  7. Những thành viên đã cảm ơn songchungvoi_HIV cho bài viết này:

    Hon5thang (25-11-2013)

  8. #5
    Thành viên năng động nhiệt tình.
    Ngày tham gia
    18-07-2009
    Giới tính
    Nam
    Đến từ
    Tp.HCM
    Bài viết
    47,923
    Cảm ơn
    2,578
    Được cảm ơn: 11,968 lần
    TÁO BÓN VÀ KIẾT LỴ

    I. TÁO BÓN.

    Bình thường số lần đại tiện từ một đến hai lần trong một ngày, phân mềm đóng thành khuôn, lượng phân từ 200g đến 400g. khi bị táo bón thì quá hai ngày mới đại tiện, mỗi lần đại tiện rất khó hoặc lượng phân mỏi lần ra ít hơn bình thường hoặc khô cứng.
    Bình thường thành phần nước có trong phân là 75%; phân khô không bón, thành phần nước <= 70%.
    Táo bón do rất nhiều yếu tố khác nhau gây nên, có thể do những tổn thương thực thể, do phản xạ, do thói quen, do chế độ ăn uống… để giải thích các nguyên nhân,ta cần nhắc lại sơ bộ quá trình tạo thành phân và thải tiết phân:
    1. Qúa trình thải tiết phân bình thường.

    Thức ăn sau khi được tiêu hoá và hấp thụ ở ruột non, tới đại tràng phần lớn nước được hấp thụ lại phân khô và đóng thành khuôn sẽ đi xuống đại tràng sicma, được tích chứa ở đó. Khi lượng phân nhiều đến một mức nào đó sẽ đi xuống trực tràng và kích thích niêm mạc trực tràng, gây nên phản xạ mót rặn: co cơ nâng hậu môn, mở cơ vòng hậu môn, đại tràng co bóp mạnh, đồng thời cơ hoành và các cơ thành bụng co, làm tăng áp lực trong ổ bụng; tất cả dẫn đến hiện tượng tống phân ra ngoài.
    Đại tiện vừa là một phản xạ tự động vừa là một phản xạ có ý thức; để điều hoà sự hoạt động của đại tiện, có sự tham gia của dây thần kinh X và của hệ giao cảm.
    Như vậy, táo bón có thể do: những cản trở cơ giới ngăn sự lưu thông của phân (khối u,hen…; đại tràng hút lại quá nhiều nước làm phân khô; cơ ở đại tràng, trực tràng và hậu môn bị liệt hoặc quá tăng trương lực; rối loạn phản xạ và rối sự điều hoà thần kinh thực vật.
    2. Triệu chứng.

    2.1. Đi đại tiện khó khăn, nhiều ngày mới đi một lần, mỗi lần đại tiện phải rặn nhiều, phải vận dụng nhiều cơ thành bụng và cơ hoành để tống phân ra ngoài. phân rắn thành cục, mật độ cứng có thể dính theo máu tươi do cọ xát vào niêm mạc hậu môn làm rách những mạch máu nhỏ, có khi dính theo những chất nhầy niêm dịch của đại tràng, trực tràng.
    2.2. Nếu táo bón kéo dài có thể gây nên những biến loạn toàn thân như nhức đầu, đánh trống ngực, thay đổi tính nết (hay cáu gắt…).
    2.3. khám người bệnh ta có thể thấy nhiều cục phân cứng lổn nhổn ở vùng đại tràng xuống và đại tràng sichma, thăm trực tràng có khi sờ thấy phân rất cứng.
    3. Nguyên nhân

    Như trên ta đã biết, táo bón có thể do rất nhiều nguyên nhân gây nên, tuỳ theo mỗi loại nguyên nhân khác nhau, táo bón sẽ kết hợp với các triệu chứng khác nhau, do đó trước một người bị táo bón muốn tìm nguyên nhân cần phải:
    - Hỏi kỹ người đó về tiền sử nghề nghiệp, thói quen, chế độ làm việc và ăn uống; rối loạn chức năng của tiêu hoá và toàn thân.
    - Thăm khám bộ máy tiêu hoá và toàn than, chú ý thăm trực tràng.
    - Tuỳ theo nguyên nhân và điều kiện làm xét nghiệm cần thiết như: xét nghiệm phân, soi trực tràng chụp khung đại tràng có thuốc cản quang.
    Ta có thể chia nguyên nhân tào bón làm hai loại chính.
    3.1. Táo bón chức năng. Khi không có tổn thương ở đại tràng, trực tràng và hậu môn, loại nguyên nhân này rất hay gặp.
    3.1.1. Táo bón trong thời gian ngắn:
    - Những bệnh toàn thân: tình trạng nhiễm khuẩn sốt nhiều, sau phẫu thuật mất nhiều máu.. những nguyên nhân này gây mất nước trong cơ thể do đó phân khô và táo.
    - Do thuốc: một số thuốc làm giảm nhu động của ruột hoặc làm phân khô lại như: thuốc phiện tanin, thuốc an thần, thuốc có chất sắt.
    - Do phản xạ: những cơn đau dữ dội ở bụng làm mất phản xạ đại tiện cơn đau quặn thận, quặn gan.
    3.1.2. Táo bón mạn tính:
    - Do chế độ ăn uống: ăn ít ra, uống ít nước, ăn sữa bò (trẻ còn ăn sữa), thiếu vitamin B1.
    - Do nghề nghiệp và thói quen: những nghề phải ngồi nhiều ít hoạt động, nghề tiếp xúc với chì, ngộ độc chì mạn tính, ảnh hưởng đến sự hoạt động của ruột. Do thói quen không đại tiện đúng giờ giấc, quên đại tiện làm rối loạn phản xạ mót rặn.
    - Do suy nhươc: những người già, suy nhược, mắc bệnh mạn tính phải nằm lâu. Tất cả những nguyên nhân kể trên là nhu động ruột và trương lực các cơ thành bụng giảm gây nên táo bón.
    - Rối loạn tâm thần: lo lắng, buồn rầu không để ý đến đến đại tiện, mất phản xạ mót rặn…
    3.2. Táo bón do tổn thương thực thể:
    3.2.1. Tổn thương ở trong ống tiêu hoá:
    - Những cản trở đường đi của phân: những khối u của trực tràng, đại tràng… ngoài dấu hiệu táo bón có thể đại tiện ra mũi, máu, có hội chứng bán tắc ruột, thăm trực tràng, soi trực tràng và chụp đại tràng tháy khối u.
    - Những tổn thương bẫm sinh của đại tràng: bệnh đại tràng dài, đại tràng lớn, phân tích chứa lạitrong đại tràng nhiều và bị lậu nên bị hút nước lại nhiều làm cho phân khô và táo bón. Ta có thể xác định bằng cách chụp khung đại tràng.
    - Viêm đại tràng mạn tính: nhất là có thể co thắt và đau quặn bụng từng cơn.
    - Những tổn thương của trực tràng và hậu môn
    · Trĩ và nứt hậu môn: mỗi lần đại tiện rất đau, người bệnh không giám đại tiệnvà gây nên táo bón.
    · Hẹp trực tràng và hậu môn, di chứng của bệnh Nicolas Favre: Đại tiện rất khó, phân nhỏ.
    3.2.2. Tổn thương ở ngoài ống tiêu hoá.
    - Từ ngoài đè vào làm cản trở đại tiện:
    + Phụ nữ có thai, nhất là những tháng cuối, thai to đè vào trực tràng.
    + Khối u của cổ tử cung, khối u tiền liệt tuyến, khối u của các phần tiểu khung.
    + Các dây chằng dính sau mổ, hay sau viêm xung quanh đại, trực tràng làm co hẹp, đại trực tràng.
    - Tổn thương ở não, màng não
    + Hội chứng màng não: táo bón do rối loạn thần kinh thực vật.
    + Tăng áp lực sọ não: cũng giống như hội chứng màng não.
    + Tổn thương ở tuỵ: táo bón do mất phản xạ mót rặn, người bệnh không đại tiện được.
    II. HỘI CHỨNG KIẾT LỴ.

    Kiết lỵ là một thể đặc biệt của táo bón, một hội chứng tiêuhoá gồm những rối loạn gồm những rối loạn về đại tiện và những cơn đau đặc biệt. Nguyên nhân phần lớn là do những tổn thương thực thể ở đại tràng và trực tràng gây nên.
    1. Triệu chứng

    1.1. Rối loạn về đại tiện. Người bệnh đại tiện rất nhiều lần, mỗi lần ra rất ít phân, có khi không có phân, mót rặn nhiều nhưng rất khó đại tiện. Vì vậy, ta có thể coi kiết lỵ là một thể đặc biệt của táo bón.
    1.2. Tính chất của phân. Phân thường rất ít, lẫn với chất nhầy niêm dịch mủ nhầy, máu tươi, máu lẫn niêm dịch, bọt và hơi; có khi chỉ có máu và niêm dịch không có phân.
    1.3. Đau và mót rặn: một lần đại tiện thấy đau quặn từng cơn ở dọc theo khung đại tràng, nhất là vùng đại tràng, sichma và trực tràng, kèm theo đau có phản xạ mót rặn, đau buốt mót rặn ở hậu môn bắt người bệnh phải đại tiện ngay. Sau khi đại tiện thì đau và mót rặn hết, trong một ngày có rất nhiều cơn, gây nên đại tiện nhiều lần.
    1.4. Các triệu chứng khác.
    - Triệu chứng tiêu hoá: tuỳ theo nguyên nhân, có thể có những dấu hiệu như nôn, sôi bụng, bán tắc ruột…
    - Về thăm khám: ta chú ý phải thăm trực tràng cho tất cả những người bệnh có hội chứng kiết lỵ, và coi như là một thủ thuật bắt buộc để phát hiện sớm nguyên nhân kiết lỵ do ung thư trực tràng. Ngoài ra thăm khám chung về tiêu hoá để phát hiện các nguyên nhân khác như khối u đại tràng, viêm đại tràng…
    - Triệu chứng toàn thân: tuỳ theo nguyên nhân, có thể có dấu hiệu, nhiễm khuẩn, suy môn…
    1.5. Xét nghiệm: đứng trước một người bệnh có hội chứng kiết lỵ,ta cần làm các xét nghiệm sau:
    - Các xét nghiệm về phân tìm ký sinh vậ, vi khuẩn, tế bào.
    - Soi trực tràng và nếu cần thì sinh thiết niêm mạc trực tràng.
    - Chụp khung đại tràng, trực tràng có thuốc cản quang.
    2. Nguyên nhân.

    2.1. Lỵ do amip: là nguyên nhân thông thường nhất, do ký sinh vật amip gây nên những ổ loét ở đại, trực tràng, kích thích niêm mạc đại trực tràng nên có những dấu hiệu rất điển hình.
    - Dấu hiệu nhiễm khuẩn nhẹ.
    - Đau quặn và mót rặ, phân nhiều, lẫn nhiều niêm dịch.
    - Trong phân có amip (soi tươi). Rất hay táiphát, kéo dài.
    2.2. Lỵ trực khuẩn.
    - Dấu hiệu nhiễm khuẩn rõ rệt.
    - Đau quặn và mót rặ, phân nhiều, lẫn nhiều niêm dịch, ít khi có máu (đại tiện giống như khạc đờm).
    - Phân có trực khuẩn lỵ (cấy).
    2.3. Ung thư trực tràng: nên chú ý khi hội chứng kiết lỵ kéo dài những người bệnh già. Ung thư kích thích niêm mạc trực tràng gây nên:
    Ít khi đau nhưng mót rặn nhiều.
    - Phân có máu và niêm dịch, có khi ra máu tươi.
    - Thăm trực tràng thấy khối u cứng, chảy máu; nếu nghi ngờ, nên sờ trực tràng và làm sinh thiết.
    2.4. Ung thư đại trang sichma.
    - Mót rặn nhiều có khi đại tiện có máu và niêm dịch.
    - Có dấu hiệu bán tắc hoặc tắc ruột.
    - Khám thấy khối u, soi và chụp đại tràng sẽ phát hiện được chính xác.
    2.5. Các khối u xung quanh trực tràng. U tiền liệt tuyến, u cổ tử cung… có thể kích thích niêm mạc trực tràng gây nên phản xạ mót rặn và tiết nhiều niêm dịch.

  9. Những thành viên đã cảm ơn songchungvoi_HIV cho bài viết này:

    Hon5thang (25-11-2013)

  10. #6
    Thành viên năng động nhiệt tình.
    Ngày tham gia
    18-07-2009
    Giới tính
    Nam
    Đến từ
    Tp.HCM
    Bài viết
    47,923
    Cảm ơn
    2,578
    Được cảm ơn: 11,968 lần
    CHẢY MÁU ĐƯỜNG TIÊU HOÁ.

    Chảy máu đường tiêu hoá là một tình trạng rất hay gặp trong các bệnh về tiêu hoá, do rất nhiều nguyên nhân gây nên.
    Chảy máu ở đây rất nhiều và nhanh có thể đe doạ đến tính mạng người bệnh, do đó đòi hỏi phải theo dõi kỹ càng xử trí kịp thời.
    Chảy máu đượng tiêu hoá là hiện tượng máu thoát ra khỏi mạch máu và chảy vào ống tiêu hoá. Máu được tống ra ngoài bằng cách nôn hay ỉa ra máu.
    Ống tiêu hoá đi từ miệng đến hậu môn, nhưng những chảy máu ở miệng hay hậu môn không xếp vào đây, do đó nôn và ỉa ra máu là hiện tượng chủ yếu của chảy máu đường tiêu hoá.
    I. TRIỆU CHỨNG.

    1. Những triệu chứng trực tiếp.
    Nôn ra máu và ỉa ra máu.
    1.1. Nôn ra máu: máu từ thực quản, dạ dày và phần trên tá tràng được ra ngoài qua đường mồm.
    1.1.1. Triệu chứng chức năng: Trước khi nôn, người bệnh thấy nôn nao. Khó chịu, lợm giọng, buồn nôn và nôn. Có khi nôn ra rất nhiều và nhanh chóng không dấu hiệu báo trước: nôn do vỡ tĩnh mạch thực quản.
    1.1.2. Tính chất của máu:
    - Máu có thể còn tươi như trong vỡ tĩnh mạch thực quản vì máu chảy ra được nôn ngay.
    - Máu đen lẫn máu cục và thức ăn vì máu chảy ra còn đọng ở dạ dày một thời gian mới nôn ra.
    - Nước màu nâu,hồng: khi máu chảy ít đọng lại lâu trong dạ dày, bị hoà loãng và thay đổi bởi dịch dạ dày và thức ăn.
    1.1.3. Chẩn đoán phân biệt.
    - Ho ra máu: máu ra ngay sau khi ho, máu đỏ tươi có lẫn bọt. Máu ra nhiều lần rải rác trong nhiều ngày có phản ứng kiềm.
    - Chảy máu cam: máu chảy qua đường mũi đỏ tươi và khạc cả ra đường mồm.
    - Người bệnh có thể nuốt vào và nôn ra máu cục: muốn phân biệt cần phải hỏi tiền sử bệnh, kết hợp thăm khám tai, mũi,họng.
    - Uống những thuốc có màu đen (than) ăn tiết canh rồi nôn ra: muốn phân biệt cần xem kỹ chất nôn và hỏi người bệnh.
    1.2. Iả ra máu. Là máu từ ống tiêu hoá tống ra ngoài qua đường hậu môn, máu chảy ra có thể từ thực quản trở xuống đến trực tràng và tuỳ theo từng vị trí khác nhau, tính chất của máu ỉa ra sẽ rất khác nhau.
    1.2.1. Triệu chứng chức năng: người bệnh có thể thấy nôn nao,khó chịu, đau bụng, sôi bụng, mót đại tiện, cũng có khi không thấy gì đặc biệt.
    1.2.2. Tính chất của máu:
    - Máu đỏ tươi: có thể thành tia dinh vào phân, chảy thành tia, chảy nhỏ gịot sau khi đại tiện, hoặc đại tiện hoàn toàn là máu không có phân.
    Máu đỏ tươi thường là do chảy từ phần thấp của bộ máy tiêu hoá: trực tràng, đại tar2ng, hồi tràng.. nhưng cũng có khi ở phần cao như dạ dày, tá tràng vì chảy nhiều và ồ ạt nên qua ống tiêu hoá chưa kịp phân huỷ.
    - Máu đen: do máu chảy từ phần trên của ống tiêu hoá: thực quản, dạ dày, tá tràng… có thời gian lưu lại lâu trong ống tiêu hoá và vi khuẩn phân huỷ trở nên đen. Phân đen có thể khô, đóng thành khuôn như bã cà ph, bồ hóng hoặc lỏng sền sệt như nhựa đường, thấm vào bông hoặc giấy thấy có ánh hồng hay tím, cho vào nước làm nước có màu hơi hồng.
    Phân đen thường có mùi khẳm vì quá trình lên men thối ở ruột. Khi máu chảy ít và từ từ làm cho phân không đen nhiều, ảnh hưởng ít đến toàn thể trạng người bệnh, khó nhận định. Muốn xác định cần xem kỹ phân và nếu cần thì làm phản ứng Weber-Meyer để tìm máu trong phân.
    1.2.3. Chẩn đoán phân biệt: ỉa phân đen cần phân biệt với:
    - Uống thuốc có bitmut, chất sắt, than thảo mộc…phân cũng đen nhưng có màu xám hoặc hơi xanh. Khi ngưng dùng thuốc phân trở nên vàng.
    - Phân đen do ỉa ra nhiều mật: lúc đầu màu xanh sau biến thành màu xanh đen.
    - Phân sẫm màu của người táo bón: phân rắn có màu sẫm nhưng không đen.
    Nói chung trong những trường hợp nghi ngờ cần làm phản ứng Weber – Meyer.
    2. Những triệu chứng gián tiếp của tình trạng chảy máu đường tiêu hoá.
    Tuỳ theo số lượng máu và thời gian chảy máu mà ảnh hưởng đến toàn trạng người bệnh có khác nhau: tình trạng mất máu cấp tính hay kéo dài. Ta chia làm 3 loại.
    2.1. Chảy máu nhẹ. Máu chảy ra ít, khoảng vài chục đến vài trăm phần khối. Người bệnh chỉ thấy hơi mệt mỏi, không có thay đổi rõ rệt về toàn trạng, mạch huyết áp; các xét nghiệm về máu chưa thay đổi.
    Nói chung, không nên chỉ dựa vào số máu nôn hoặc ỉa ra ngoài mà đánh giá mức độ nặng nhẹ, cần phải dựa vào các dấu hiệu toàn thân,mạch huyết áp và các xét nghiệm về máu.
    2.2. Chảy máu trung bình và nặng. Vì lượng máu ra nhiều trong một thời gian ngắn nên sẽ xuất hiện tình trạng mất máu cấp tính.
    2.2.1. Tình trạng thiếu máu:
    - Da, niêm mạc hơi nhạt.
    - Chóng mặt, hoa mắt.
    2.2.2. Tình trạng truỵ tim mạch.
    - Vã mồ hôi, lạnh chân tay.
    - Mạch nhanh nhỏ, có khi không lấy được.
    - Huyết áp hạ.
    - Thở nhanh, co 1khi sốt nhẹ.
    - Đái ít, có khi vô niệu.
    2.2.3. Làm các xét nghiệm thấy:
    - Hồng cầu và lượng sắc tố giảm nhanh chóng.
    - Thể tích hồng cầu giảm.
    - Urê máu tăng.
    - Amoniac máu tăng (nếu chảy máu do xơ gan).
    2.2.4. Diễn biến nói chung: nếu máu chảy ra nhiều và nhanh, có khi nguy hiểm đến tính mạng người bệnh. Cần phải theo dõi kỹ để có thái độ xử lý kịp thời. Theo dõi chủ yếu dựa vào:
    - Tình trạng toàn thân, mạch huyết áp.
    - Lượng máu chảy ra.
    - Các xét nghiệm về máu.
    2.3. Chảy máu ít nhưng kéo dài: tuy không gây nên tình trạng mất máu cấp tính nhưng dẫn đến tình trạng thiếu máu: da niêm mạc nhợt nhạt, nhọc mệt, suy tim do thiếu máu… xét nghiệm máu sẽ thấy tình trạng thiếu máu rõ rệt.
    3. Những triệu chứng có liên quan đến nguyên nhân gây chảy máu.
    Tuỳ theo mỗi nguyên nhân khác nhau gây chảy máu, sẽ có những triệu chứng khác nhau:
    3.1. Hội chứng dạ dày: chảy máu do loét dạ dày, hành tá tràng.
    3.2. Hội chứng tăng áp lực tĩnh mạch cứa: chảy máu do vỡ tĩnh mạch, thực quản.
    3.3. Hội chứng chảy máu: do các bệnh máu.
    3.4. Hội chứng đại tràng: chảy máu do tổn thương ở đại tràng…
    Do đó muốn tìm nguyên nhân chảy máu, cần phải hỏi kỹ bệnh nhân, thăm khám toàn diện và nếu cần, phải kết hợp với các phương pháp cận lâm sàng như Xquang, sinh hoá, soi trong….
    II. NGUYÊN NHÂN.

    Chảy máu từ hành tá tràng trở lên đều có thể gây nên nôn ra máu cũng như ỉa ra máu, trái lại chảy máu từ dưới hành tá tràng trở xuống chỉ gây ỉa ra máu.
    1. Những nguyên nhân gây nôn ra máu.

    Những nguyên nhân gây nôn ra máu, đồng thời cũng có thể gây nên ỉa ra máu. Ta chia làm ba loại chính:
    1.1. Những nguyên nhân thường gặp:
    1.1.1. Do loét dạ dày hành tá tràng: đó là nguyên nhân hay gặp nhất, máu chảy ra dưới hình thức: nôn ra máu, ỉa pâhn đen và ỉa phân đen tiềm tàng.
    Loét hành tá tràng hay gây chảy máu hơn loét dạ dày.
    Đặc tính của các loại chảy máu do loét dạ dày và hành tá tràng là:
    - Khối lượng máu thường nhiều,
    - Xảy ra nhiều lần có thể gây ra tình trạng thiếu máu trầm trọng.
    - Kết hợp với các triệu chứng khác như đau ở vùng thượng vị có chu kỳ, hình ảnh xquang ãe xác định chẩn đoán. Nhưng cũng có khi chảy máu là dấu hiệu đầu tiên của bệnh.
    1.1.2. Do tăng áp lực tĩnh mạch cửa: hiện tượng này gặp trong các bệnh xơ gan, hội chứng Bannti, hội chứng Budd- Chiari (tắc tĩnh mạch trên gan): máu ở hệ tĩnh mạch cửa bị cản trở sẽ qua những đường bàng hệ để trở về tĩnh mạch chủ dưới phần bàng hệ phình dãn và tăng áp lực. Đặc điểm của loại chảy máu này là:
    - Máu tươi, màu hơi đen vì là máu tĩnh mạch.
    - Khối lượng thường rất nhiều và không lẫn thức ăn.
    Kết hợp với các triệu chứng khác như tuần hàon bàng hệ dưới da bụng, cổ trướng, lách to. Về xét nghiệm, thấy lượng amoniac trong máu tăng cao (bình thường 100microgam%) và chụp Xquang thấy hiện tượng giãn tĩnh mạch thực quản.
    1.2. Những nguyên nhânít gặp hơn:
    1.2.1. Do ung thư dạ dày: máu nôn ra thường là màu đen, khối lượng máu ra thường ít nhưng rất nhiều lần. Chảy máu ở đây thường tiềm tàng, là phân đen hay gặp hơn nôn ra máu.
    1.2.2. Do viêm dạ dày: trong các bệnh viêm dạ dày thì loại viêm dạ dày chảy máu và loại viêm phì đại hay gây chảy máu. Thường là chảy máu nhiều nơi trong niêm mạch dạ dày, khối lượng máu ra có thể nhiều.
    1.2.3. Do các bệnh máu: một số bệnh máu do những cơ chế khác nhau có thể chảy máu ở nhiều nơi: chân răng, mũi, dưới da, ruột, niêm mạc dạ dày…
    - Bệnh bạch cầu đa sinh cấp và mạn: chảy máu do thiếu tiểu cầu, do đó gây chảy máu.
    - Bệnh suy tuỷ xương: tuỷ xương không sản xuất đầy đủ tiểu cầu do đó gây chảy máu.
    - Bệnh máu chậm đông (hémophilie): thiếu các yếu tố tạo nên protrombin, một thành phần làm đông máu.
    - Bệnh máu chảy lâu (hémogénie): thiếu về chất hay về lượng tiểu cầu, làm máu chảy kéo dài.
    1.2.4. Do suy tim: gan đóng vao trò quan trọng trong cơ chế đông máu vì góp phần tạo ra protrombin và gây chảy máu ở nhiều nơi, trong đó có niêm mạc của dạ dày.
    1.2.5. Do dùng một số thuốc:
    - Một số thuốc có tác dụng kích thích niêm mạc dạ dày gay chảy máu nhất là dạ dày đã bị viêm hoặc loét sẵn: những thuốc hay gây chảy máu dạ dày như aspirin và các loại axit salixylie, phenyl butazon…
    - Những thuốc loại cocticoit: đối với người viêm hoặc loét dạ dày, dùng thuốc này thì các ổ loét càng tiến triển thêm nặng và gây chảy máu.
    - Những thuốc chống đông máu (heparin, dicumarol) cũng có thể gây chảy máu dạ dày, nếu dùng quá nhiều và nhất là đối với những người đã bị viêm loét từ trước.
    Đối với những loại thuốc kể trên, chống chỉ định dùng cho những người bệnh bị viêm loét dạ dày và hành tá tràng.
    1.3. Những nguyên nhân hiếm gặp:
    1.3.1. Chảy máu dạ dày trong hội chứng Malôri-Oét: Nôn nhiều do bất kỳ nguyên nhân gì, khi nôn quá nhiều, niêm mạc dạ dày có thể nứt và trợt, gây chảy máu.
    1.3.2. Do một số bệnh dã dày: u lành tính, u mạch máu, thoát vị dạ dày.
    1.3.3. Do các tổn thương viêm, loét và trợt của thực quản.
    1.3.4. Do ngộ độc:
    - Ngộ độc nội sinh: urê máu cao. Máu nôn ra thường dưới dạng nước đen.
    - Ngộ độc ngoại sinh: ngộ độc chì, thuỷ ngân…
    1.3.5. Những bệnh nhiễm khuẩn và dị ứng: có thể gây xung huyết và gây chảy máu ở niêm mạc của dạ dày (cúm ác tính, dị ứng nặng toàn thân,hội chứng Schonlein-Hénoch).
    2. Những nguyên nhân gây ỉa ra máu.

    Tất cả những nguyên nhân gây chảy máu từ thực quản xuống ruột non đều gây ỉa phân đen. Những tổn thương ở đại tràng, gây ỉa máu tươi, càng gần trực tràng máu càng tươi.
    2.1. Những nguyên nhân gây ỉa ra máu: tất cả những nguyên nhân gây nôn ra máu kể trên đều dẫn tới ỉa máu đen. Ngoài ra có thể gặp các nguyên nhân khác.
    2.1.1. Thương hàn. Do loét ở ruột cuối, thường xảy ra chậm sau một thời gian sốt kéo dài. Khối lượng máu thường nhiều và kéo dài, tiến triển theo bệnh, khi bệnh khỏi thì cũng hết ỉa ra máu. Máu cũng có thể đỏ, nếu chảy nhanh, nhiều và ồ ạt.
    2.1.2. Những bệnh về gan mật: gan đứt, vỡ mạch máu ở gan và đường mật (apxe gan, ung thư gan,ung thư đường mật, ung thư bóng Vater), máu chảy qua đường mật xuống ruột và gây ỉa máu đen.
    2.2. ỉa máu tươi:
    2.2.1. Nguyên nhân thường gặp:
    - Trĩ nội: máu tươi dính theo phân và nhỏ giọt sau khi đại tiện. Thăm trực tràng sẽ thấy tĩnh mạch trực tràng giãn và nổi ngoằn ngoèo thành từnng búi, có máu ra theo tay
    - Ung thư trực tràng: hay gặp ỏ người già, triệu chứng chủ yếu là ỉa máu tươi kéo dài, máu ra từng giọt hay từng tia. Thăm và soi trực tràng thấy khối u.
    - Ung thư đại tràng: ỉa máu thường ít và dính theo phân. Có hội chứng bán tắc ruột và khám thấy khối u.
    - Kiết lỵ: máu thường lẫn với phân, kèm theo có mũi, ỉa nhiều lần trong ngày, đau bụng, mót rặn và đau hậu môn khi đi ỉa.
    - Lồng ruột: ngoài hội chứng tắc ruột, đại tiện ra những giọt má tươi, thăm trực tràng có máu theo tay.
    2.2.2. Nguyên nhân hiếm gặp:
    - Viêm đại trực tràng chảy máu: có thễ rỉ máu theo phân có lẫn ít mủ thường chảy máu nhiều.
    - Nhồi máu ruột non do tắc mạch mạc treo: đau quặn bụng dữ dội và ỉa ra máu, máu có thể đen hoặc tươi.
    - Polip đại, trực tràng: ỉa ra máu tươi thành giọt, đôi khi thành tia. Soi và chụp đại tràng có thể thấy Pôlip.
    - Tình trạng dị ứng: làm xung huyết niêm mạc trực tràng cũng có thể gây ra ỉa máu tươi.
    Chảy máu đường tiêu hoá rất thường gặp ở các bệnh viện, đó là một trường hợp cấp cứu, đòi hỏi phải có thái độ xử trí nhanh chóng, kịp thời. Muốn cấp cứu tốt, điều trị tốt. Theo dõi là một khâu rất quan trọng đối với chảy máu đường tiêu hoá.

  11. Những thành viên đã cảm ơn songchungvoi_HIV cho bài viết này:

    Hon5thang (25-11-2013)

  12. #7
    Thành viên năng động nhiệt tình.
    Ngày tham gia
    18-07-2009
    Giới tính
    Nam
    Đến từ
    Tp.HCM
    Bài viết
    47,923
    Cảm ơn
    2,578
    Được cảm ơn: 11,968 lần
    Viêm ruột do nhiễm khuẩn

    Là bệnh nhiễm khuẩn, do các vi khuẩn dạng campylobacter gây ra. Ðây cũng là nguyên nhân gây tiêu chảy quan trọng nhất trên toàn thế giới và ở mọi lứa tuổi. Nhận biết để phòng bệnh là một biện pháp cần thiết và hữu hiệu nhất.





    Bệnh dễ lây nhiễmCampylobacter jejuni và thậm chí cả C.coli là nguyên nhân thường gặp gây tiêu chảy ở người do campylobacter. Đây là vi khuẩn rất đa dạng về các týp sinh học và các týp huyết thanh. Ổ chứa vi khuẩn là động vật, gia súc và gia cầm. Chó con, mèo con, các vật nuôi làm cảnh khác, các động vật gậm nhấm và chim, lợn, cừu đều có thể là nguồn lây bệnh cho người qua tiếp xúc.


    Thời kỳ lây truyền kéo dài suốt giai đoạn nhiễm khuẩn, thường từ vài ngày đến vài tuần. Những người không được điều trị kháng sinh có thể đào thải vi khuẩn ra ngoài trong vòng từ 2-7 ngày.


    Biểu hiện đa dạngĐây là bệnh nhiễm khuẩn đường ruột cấp tính với các đặc điểm điển hình như tiêu chảy, đau bụng, mệt mỏi, sốt, buồn nôn và nôn. Thời kỳ ủ bệnh có thể từ 2 - 5 ngày, cũng có thể là từ 1 - 10 ngày tuỳ theo thể trạng của từng người.


    Khi mắc bệnh, người bệnh đi ngoài phân lỏng, có nhiều máu hoặc không rõ, lẫn với chất nhày và có bạch cầu. Có thể có hội chứng giống thương hàn hoặc viêm khớp hoạt tính.


    Hiếm khi bệnh nhân có sốt cao co giật, hội chứng Guillain- Barré hay viêm màng não.Một số bệnh nhân có biểu hiện giống viêm ruột thừa cấp tính, nhưng cũng có những trường hợp biểu hiện bệnh không rõ ràng.


    Ở các nước phát triển, trẻ dưới 5 tuổi và thiếu niên có tỷ lệ mắc cao nhất, còn ở các nước đang phát triển đối tượng chủ yếu là trẻ dưới 2 tuổi, người ta cho rằng sự gần gũi của trẻ với các dạng vật nuôi và kháng thể chưa phát triển hoàn thiện là điều kiện khiến trẻ dễ bị nhiễm bệnh.


    Chẩn đoán bệnh dựa vào triệu chứng và sự phân lập vi khuẩn từ phân trên môi trường nuôi cấy. Sử dụng kính hiển vi đối pha hoặc kính hiển vi nền đen sẽ thấy phẩy khuẩn di động, cong, xoắn hình chữ S, tương tự như vi khuẩn vibrio cholerae.Phòng bệnh là biện pháp hữu hiệu





    Để phòng bệnh mọi người cần ăn chín, uống nước sôi, nấu chín kỹ các thức ăn có nguồn gốc từ gia cầm, chỉ uống sữa đã tiệt khuẩn, tránh để thức ăn bị nhiễm bẩn lại sau khi đã nấu chín.


    Nếu gia cầm, gia súc nuôi mắc bệnh cần phải được điều trị kháng sinh, người tiếp xúc nên mặc quần áo bảo hộ, đi giày dép vào chuồng trại. Khi vật nuôi bị ốm vì bất cứ nguyên nhân gì cũng không nên cho trẻ ôm ấp, gần gũi chúng. Nên thực hiện nghiêm chỉnh yêu cầu bàn tay sạch, rửa tay trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh bằng xà phòng tiệt khuẩn.


    Các chất thải của người và gia cầm, gia súc, vật nuôi phải được tập trung ở những khu cách ly với nơi sinh sống, không chỉ để tránh phát tán các vi khuẩn gây viêm ruột mà còn nhiều bệnh truyền nhiễm khác.


    Nếu có người bị nhiễm bệnh, cần đưa đi đến các cơ sở y tế, tránh tự ý dùng kháng sinh vì dễ gây ra kháng thuốc và khó khăn cho điều trị khi bệnh tái phát hoặc mắc phải bệnh nhiễm khuẩn khác có chỉ định dùng kháng sinh.

  13. Những thành viên đã cảm ơn songchungvoi_HIV cho bài viết này:

    Hon5thang (25-11-2013)

  14. #8
    Thành viên năng động nhiệt tình.
    Ngày tham gia
    18-07-2009
    Giới tính
    Nam
    Đến từ
    Tp.HCM
    Bài viết
    47,923
    Cảm ơn
    2,578
    Được cảm ơn: 11,968 lần
    Hỏi: Nguyên nhân và cách điều trị bệnh nhiễm khuẩn đường ruột ?


    Mình nghe nói nhiễm khuẩn đường ruột là một bệnh rất dễ mắc phải đặc biệt là trong mùa hè. Cho mình hỏi nguyên nhân gây ra bệnh này là gì vậy ? Cách điều trị như thế nào ?

    Trả lời: Phương pháp điều trị và nguyên nhân của bệnh nhiễm khuẩn đường ruột

    Chào bạn! Tất cả mọi người đều có nguy cơ nhiễm bệnh, tuy nhiên, trẻ em và người già dễ mắc bệnh hơn do độ toan của dạ dày thấp và tình trạng miễn dịch cơ thể họ yếu hơn những người trưởng thành khỏe mạnh. Những người đã bị cắt đi một phần dạ dày, những người bị suy giảm miễn dịch khi mắc các bệnh ung thư hay xơ gan... cũng dễ mắc bệnh. Bệnh nhiễm khuẩn đường ruột lây nhiễm theo đường tiêu hóa do thức ăn bị ô nhiễm, chẳng hạn như hải sản, thủy sản được đánh bắt từ sông hồ bị ô nhiễm, hoặc do vệ sinh ăn uống không đảm bảo như ăn đồ thiu, đồ sống, không rửa tay trước khi ăn, ăn thức ăn bị ruồi nhặng, chuột bọ gặm nhấm, hoặc nguồn nước sử dụng không bảo đảm chất lượng… từ đó dễ bị nhiễm khuẩn Shigella gây bệnh lỵ trực khuẩn cấp; trực khuẩn Salmonella gây bệnh thương hàn và nhiễm độc ăn uống; phẩy khuẩn tả Vibrio cholerae gây bệnh tả. Triệu chứng lâm sàng của bệnh nhiễm khuẩn đường ruột khá da dạng và diễn biến không đơn giản với 5 giai đoạn: Nung bệnh, khởi phát,
    toàn phát, tái phát và hồi phục. Chúng ta có thể nhận biết bệnh này qua một số triệu chứng cơ bản: Người bệnh đau bụng, mót rặn, đại tiểu tiện nhiều, lỏng (nhiều lúc phân thối, kèm theo nước nhiều, lẫn thức ăn chưa tiêu, hoặc có máu, nhầy). Người bệnh bị sốt và có các triệu chứng thường đi kèm như gai người, rét và nôn. Nặng hơn, bệnh nhân có thể bị sốt cao, co giật, mê sảng, rối loạn nước và điện giải, trụy tim mạch, huyết áp tụt, hôn mê và tử vong.
    Có trường hợp nhiễm khuẩn- nhiễm độc thức ăn, bệnh nhân không sốt, không có dấu hiệu tổn thương hệ thần kinh trung ương nhưng bị liệt các cơ hô hấp và sẽ có nguy cơ tử vong nếu không được chữa trị kịp thời.

    Điều trị
    Để điều trị bệnh, cần chống mất nước và điện giải (tùy theo mức độ của bệnh) và dùng các thuốc đặc trị tùy theo nguyên nhân gây bệnh như nhóm thuốc quinolon (điều trị lỵ trực khuẩn), metronidazol (điều trị lỵ amíp), tetracyclin (điều trị bệnh tả).
    Là bệnh nguy hiểm, gây hậu quả nghiêm trọng khó lường nhưng bệnh nhiễm khuẩn đường ruột có thể phòng chống được. Về mặt xã hội, cần nâng cao công tác tuyên truyền vệ sinh phòng dịch, chú ý bảo vệ và cải tạo môi trường (bảo đảm cung cấp nước sạch và an toàn, xử lý vệ sinh chất thải, xây dựng hệ thống cống rãnh hợp lý...), đồng thời các ban, ngành chức năng cần kiểm tra, giám sát nghiêm túc yêu cầu vệ sinh an toàn thực phẩm, nhất là nguồn thực phẩm trong mùa hè nắng nóng. Với mọi người, nên duy trì thói quen rửa tay sau khi đi vệ sinh, rửa tay trước khi ăn, cần ăn chín, uống sôi, tuyệt đối không ăn những thức ăn đã bị ôi thiu hoặc thức ăn có mùi lạ, đồng thời khi tiếp xúc với súc vật phải sử dụng các phương tiện bảo hộ lao động như đi găng, ủng, quần áo bảo hộ...
    Cần lưu ý, khi mắc bệnh phải kịp thời điều trị và điều trị triệt để, tránh để bệnh lây lan, phát tán thành dịch.




    Lần sửa cuối bởi songchungvoi_HIV, ngày 14-11-2013 lúc 14:45.

  15. Những thành viên đã cảm ơn songchungvoi_HIV cho bài viết này:

    Hon5thang (25-11-2013)

  16. #9
    Thành viên năng động nhiệt tình.
    Ngày tham gia
    18-07-2009
    Giới tính
    Nam
    Đến từ
    Tp.HCM
    Bài viết
    47,923
    Cảm ơn
    2,578
    Được cảm ơn: 11,968 lần
    Hỏi: Triệu chứng của bệnh nhiễm khuẩn đường ruột là gì ?



    Mấy hôm nay mình rất hay bị đau bụng, đại tiểu tiện nhiều lần nhưng phân lỏng. Có phải mình đã mắc phải bệnh nhiễm khuẩn đường ruột không ?

    Trả lời: Nhiễm khuẩn đường ruột và triệu chứng của bệnh

    Chào bạn! Nhiễm khuẩn đường ruột có thể dẫn đến nhiều bệnh khác nhau, trong đó có những bệnh đã phát thành dịch lớn, cướp đi mạng sống của nhiều người. Chẳng hạn như bệnh tả, một bệnh truyền nhiễm cấp tính, nằm trong nhóm bệnh nhiễm khuẩn đường ruột. Từ khi được phát hiện vào đầu thế kỷ 19 ở Ấn Độ, đến nay đã có 7 vụ dịch tả và bệnh đã ảnh hưởng đến gần 100 quốc gia trên thế giới. Triệu chứng. Triệu chứng lâm sàng của bệnh nhiễm khuẩn đường ruột khá da dạng và diễn biến không đơn giản với 5 giai đoạn: Nung bệnh, khởi phát, toàn phát, tái phát và hồi phục. Chúng ta có thể nhận biết bệnh này qua một số triệu chứng cơ bản: Người bệnh đau bụng, mót rặn, đại tiểu tiện nhiều, lỏng (nhiều lúc phân thối, kèm theo nước nhiều, lẫn thức ăn chưa tiêu, hoặc có máu, nhầy). Người bệnh bị sốt và có các triệu chứng thường đi kèm như gai người, rét và nôn. Nặng hơn, bệnh nhân có thể bị sốt cao, co giật, mê sảng, rối loạn nước và điện giải, trụy tim mạch, huyết áp tụt, hôn mê và tử vong. Có trường hợp nhiễm khuẩn- nhiễm độc thức ăn, bệnh nhân không sốt, không có dấu hiệu tổn thương hệ thần kinh trung ương nhưng bị liệt các cơ hô hấp và sẽ có nguy cơ tử vong nếu không được chữa trị kịp thời.

  17. Những thành viên đã cảm ơn songchungvoi_HIV cho bài viết này:

    Hon5thang (25-11-2013)

  18. #10
    Thành viên năng động nhiệt tình.
    Ngày tham gia
    18-07-2009
    Giới tính
    Nam
    Đến từ
    Tp.HCM
    Bài viết
    47,923
    Cảm ơn
    2,578
    Được cảm ơn: 11,968 lần
    Cách xử trí khi bị tiêu chảy cấp

    Bệnh tiêu chảy có thể gặp ở nhiều nơi, mọi lứa tuổi và dễ lây lan thành dịch. Nguyên nhân gây tiêu chảy cấp có nhiều, nếu không được chẩn đoán và điều trị kịp thời sẽ nguy hiểm đến tính mạng. Tìm hiểu nguyên nhân tiêu chảy cấp do vi khuẩn và độc tố của vi khuẩn sẽ giúp mọi người biết cách xử trí và phòng ngừa.
    Tiêu chảy do nhiễm khuẩn nhiễm độc thức ăn

    Nguyên nhân do ăn phải thức ăn chứa vi khuẩn có khả năng đột nhập vào niêm mạc ruột và gây bệnh như Salmonella (S.typhi murium và S.enteritidis) là bệnh thường gặp nhất. Bệnh lây qua đường tiêu hóa do ăn thức ăn bị nhiễm Salmonella. Thời gian ủ bệnh trung bình 12-36 giờ sau ăn. Bệnh khởi phát đột ngột: sốt, đau bụng vùng thượng vị hoặc quanh rốn, không mót rặn tiêu chảy nhiều lần, phân thối, nhiều nước đôi khi có nhày, máu, gần giống phân trong lỵ trực khuẩn. Trường hợp nặng có rối loạn điện giải do mất nước (môi khô, mắt trũng, khát nước). Nếu không chẩn đoán và điều trị kịp thời, bệnh nhân có thể tử vong do trụy mạch.
    Ngoài ra nhiễm khuẩn nhiễm độc thức ăn còn do ăn phải thức ăn có chứa độc tố của vi khuẩn đã hình thành sẵn trong thức ăn và chính độc tố này gây bệnh (độc tố của tụ cầu vàng, Clostridium perfrigens, Clostridium botulinum, bacilluscerus và Vibrio parahaemolyticus). Biểu hiện lâm sàng là tiêu chảy nhiều lần trong ngày, đau bụng, không sốt, buồn nôn và nôn. Nếu không điều trị kịp thời sẽ dẫn đến tình trạng mất nước và tử vong.
    Tiêu chảy dạng tả

    Bệnh tả: Do Vibrio cholerae gây nên. Thời gian ủ bệnh trung bình 5 ngày. Triệu chứng thường gặp là đi ngoài nhiều lần trong ngày, phân lờ lờ như nước vo gạo, không đau bụng, không sốt, có thể tử vong nếu không được chẩn đoán và điều trị đúng. Bệnh dễ gây dịch.
    E.coli sinh độc tố ruột: gây tăng tiết dịch và điện giải vào lòng ruột, không có viêm. Nguồn lây là thức ăn và nước. Thời gian ủ bệnh 24-72 giờ, có thể sốt nhẹ, phân nhiều nước. Đây là thể bệnh tiêu chảy nhẹ nhưng kéo dài có khi đến 5 tuần.
    Tiêu chảy với biểu hiện hội chứng lỵ

    Lỵ trực khuẩn: Căn nguyên do Shigella gây ra. Triệu chứng lâm sàng là đau bụng quặn, mót rặn, đi ngoài lờ máu cá hay như nước rửa thịt, sốt. Cần điều trị sớm bằng kháng sinh đặc hiệu. Tuy nhiên hiện nay trực khuẩn này đã kháng với nhiều loại kháng sinh nên cần lựa chọn loại thích hợp.
    Escherichia coli (E.coli) gây tiêu chảy xâm nhập với hội chứng lỵ: đau quặn, mót rặn, phân lỏng có máu mũi…
    Điều trị tiêu chảy cấp như thế nào?

    Điều trị chủ yếu là bù nước và điện giải trên nguyên tắc đánh giá đúng tình trạng mất nước
    Mất nước nhẹ : Bồi phụ nước bằng đường uống khi còn uống được, thường dùng oresol pha trong 1 lít nước. Nếu không có oresol thì dùng nước cháo muối.
    Mất nước nặng : Biểu hiện mắt trũng, môi khô, da nhăn nheo. Khi lượng nước mất lớn hơn 5% trọng lượng cơ thể hoặc khi uống không có kết quả thì phải bù nước bằng truyền tĩnh mạch. Dịch truyền chủ yếu là dung dịch mặn, ngọt đẳng trương. Kháng sinh được chỉ định cho những bệnh nhân có dấu hiệu tiêu chảy xâm nhiễm (có bạch cầu trong phân). Tùy theo nguyên nhân mà sử dụng kháng sinh thích hợp. Tuy nhiên cần phải phân biệt với các trường hợp tiêu chảy do Enterovirus (hay gây dịch nhỏ khu trú và chủ yếu ở trẻ em).
    Khi điều trị tiêu chảy, ngoài bù nước, điện giải và thuốc men còn cần chú ý đến chế độ dinh dưỡng thích hợp. Người bệnh bị tiêu chảy, khả năng tiêu hóa và hấp thu thức ăn kém do vậy thức ăn cần chế biến kỹ, nấu nhuyễn dễ tiêu hóa hợp khẩu vị, đảm bảo đầy đủ nhu cầu dinh dưỡng. Không kiêng khem quá mức.
    Phòng bệnh là yêu cầu quan trọng. Tiêu chảy cấp lây truyền chủ yếu do tay bẩn, do thức ăn hoặc trung gian ruồi nhặng, gián chuột… Người là nguồn lây duy nhất. Vì vậy phòng bệnh là yêu cầu cấp thiết, cụ thể cần được thực hiện nghiêm túc các vấn đề sau:
    Vệ sinh trong ăn uống: ăn chín, uống sôi, không ăn rau sống, gỏi cá hải sản, mắm tôm…; Rửa tay xà phòng sạch sẽ trước khi ăn, khi chế biến thực phẩm và sau khi đi vệ sinh; Bảo vệ nguồn nước sạch, sử dụng nước sạch để nấu ăn (nếu không có nước máy phải dùng cloramin B để khử khuẩn). Không vứt rác, chuột chết xuống ao hồ, sông rạch; Khi gia đình hoặc xung quanh có người tiêu chảy cấp nguy hiểm cần báo cho cơ sở y tế nơi gần nhất để điều trị kịp thời; Mọi người phải có ý thức vệ sinh, không được phóng uế bừa bãi. Khi tiêu chảy phải đi vào nhà vệ sinh rồi rắc vôi bột hoặc xả nước cloramin B.
    Theo Báo Người Lao Động

  19. Những thành viên đã cảm ơn songchungvoi_HIV cho bài viết này:

    Hon5thang (25-11-2013)

  20. #11
    Thành viên năng động nhiệt tình.
    Ngày tham gia
    18-07-2009
    Giới tính
    Nam
    Đến từ
    Tp.HCM
    Bài viết
    47,923
    Cảm ơn
    2,578
    Được cảm ơn: 11,968 lần
    Cách giúp bạn xử lý tiêu chảy mùa hè rất đơn giản

    – Bệnh nhân Bùi Thu T. bị “Tào Tháo đuổi” 15 lần/ngày nên tá hỏa đi soi phân mới biết bị Rota virus.
    Rotavirus–gây mất nước nghiêm trọng


    Vào hè, thời tiết nóng bức khiến người mắc bệnh về tiêu hóa tăng vọt, đặc biệt là trẻ em. Theo bác sĩ Hoàng Thị Năng, bệnh viện đa khoa Medlatec, nguyên nhân gây tiêu chảy cấp thường gặp trong mùa hè bao gồm: lị trực khuẩn, E.coli, Rotavirus….


    Tiêu chảy cấp thường gặp trong mùa hè bao gồm: lị trực khuẩn, E.coli, Rotavirus….
    Chị Bùi Thu T. (29 tuổi, ở Văn Quán, Hà Nội), sau một ngày bị đi ngoài 15 lần đã gửi mẫu phân đến xét nghiệm tại Bệnh viện Medlatec. Kết quả xét nghiệm dương tính với Rotavirus.
    Chị T. có con nhỏ 2 tuổi mới mắc tiêu chảy cấp do Rotavirus cách đó 5 ngày. Bệnh nhân đã được bác sĩ của bệnh viện kê đơn điều trị, theo dõi và đã ổn định sau 7 ngày.
    Còn bệnh nhân Phạm Ngọc H. (58 tuổi, ở Hàng Bông, Hà Nội), chưa có tiền sử gì đặc biệt, khởi bệnh có sốt nhẹ, sau đó biểu hiện nôn và đi ngoài phân lỏng 8-9 lần/ngày. Bệnh nhân đến Bệnh viện Đa khoa Medlatec, xét nghiệm mẫu phân dương tính với virus Rota kèm theo mức độ loạn khuẩn ruột rất nặng. Xét nghiệm máu còn cho thấy tình trạng mất nước, điện giải khá nặng do hậu quả của tiêu chảy.
    Bác sỹ đã khám lâm sàng và chẩn đoán bệnh nhân bị mất nước mức độ B. Do ăn uống kém và thể trạng yếu, bệnh nhân được bù nước, điện giải cấp cứu, sau đó kê đơn điều trị và theo dõi tiếp tại nhà. Hiện tại, bệnh nhân đã hoàn toàn khỏe mạnh.
    Không chỉ với người lớn, virus Rota rất hay nhiễm vào trẻ nhỏ dưới 5 tuổi, đặc biệt với trẻ dưới 2 tuổi. Ở nước ta, tiêu chảy cấp do Rotavirus trung bình chiếm khoảng 54% các trường nhập viện do vấn đề về tiêu hóa.
    Cháu Nguyễn Thành N. bị tiêu chảy hơn 10 lần/ngày, phân lỏng toàn nước. Cháu lại sốt và nôn, mẹ bé rất lo lắng không biết cháu bị đau bụng do đâu. Khi gọi nhân viên của bệnh viện Medlatec mang phân đi soi mới biết cháu nhiễm Rota virus.
    Nhiều bà mẹ băn khoăn, không biết khi nào con nhiễm Rota virus, lị trực khuẩn hay do khuẩn E.coli.
    Người mắc Rota virus bị mất nước rất nhanh do nôn và đi phân ra nước, nếu không điều trị, rất dễ gây tử vong, nhất là ở trẻ.
    Bác sĩ Hoàng Thị Năng
    Trao đổi với phóng viên, bác sĩ Hoàng Thị Năng tư vấn: Để có kết luận chính xác trẻ bị tiêu chảy do nguyên nhân gì các bà mẹ nên soi phân, chỉ 1 giờ là có kết quả. Riêng với khuẩn E.coli cần phải cấy phân thời gian để có kết quả khá lâu từ 5 – 7 ngày. Tuy nhiên, dựa trên triệu chứng lâm sàng có thể chẩn đoán trẻ bị tiêu chảy do Rota virus, lị trực khuẩn hay E.coli.
    Cũng theo bác sĩ Năng, người mắc Rota virus thường đi ngoài nhiều từ 5 – 7 lần/ngày có lúc hơn 10 lần/ngày. Phân thường lỏng, tóe nước, gợn trắng, không nhầy, không có máu, mùi tanh nồng, màu vàng nhạt.
    Người mắc Rota virus thường nôn, sốt trước khi tiêu chảy 4- 6 tiếng, sốt nhẹ từ 38 - 38,5 o C. Cơ thể mệt mỏi.
    Tùy thể trạng mất nước của bệnh nhân, bác sĩ sẽ có hướng điều trị như bù nước. Nếu mất nước độ A, bệnh nhân được cho uống Oresol, nếu độ B, C thì phải vào viện truyền nước và điện giải. Bệnh nhân còn được cho uống men vi sinh để cân bằng vi khuẩn đường tiêu hóa, bổ sung kẽm. Kẽm có tác dụng tái tạo niêm mạc ruột, giảm lượng nước tiết ra theo phân.
    Người mắc Rota virus bị mất nước rất nhanh do nôn và đi phân ra nước, nếu không điều trị, rất dễ gây tử vong, nhất là ở trẻ.
    Bệnh nhân mắc lị trực khuẩn có số lần đi ngoài ít hơn, khoảng 5 – 7 lần/ngày. Tiêu chảy do lị trực khuẩn có gây sốt, ít khi nôn.Người bị lị trực khuẩn phân lúc đầu lỏng, nhiều nước trong ngày đầu, ngày thứ 2 phân nhầy, lờ lờ máu hồng, hay bị đau bụng, ở trẻ nhỏ sẽ quấy khóc nhiều. Triệu chứng mót rặn.
    Khi soi phân, trong phân có hồng cầu và bạch cầu. Kết hợp triệu trứng lâm sàng, bác sĩ sẽ kê đơn thuốc có kháng sinh. Lỵ trực khuẩn ít gây mất nước hơn Rota virus nhưng nếu không điều trị, để lâu đi ngoài ra máu, sẽ bị sa trực tràng.
    Bác sĩ Năng lưu ý: Với trẻ đang bú mẹ, khi bị lồng ruột nhưng dễ bị chẩn đoán nhầm với mắc lị trực khuẩn. Vì khi đó, trẻ bị lồng ruột có triệu chứng khá giống với mắc lị trực khuẩn như đau bụng, nôn đi ngoài ra máu, khóc thét từng cơn.
    Với bệnh nhân bị tiêu chảy do khuẩn E.coli: Triệu chứng là tiêu chảy nhiều, ít khi phân có nhầy và máu. Ngày đầu trẻ sẽ sốt 38 – 39 o C kèm tiêu chảy. Khi đó, bệnh nhân cần bù nước bằng cách uống Oresol.
    Triệt tiêu chảy thế nào?


    Virur Rota
    Bác sĩ Hoàng Thị Năng cho biết: Rotavirus, khuẩn E.coli, lị trực khuẩn xuất hiện ở khắp nơi, lây nhiễm phổ biến qua đường tiêu hoá, do sự lan truyền từ phân người mang mầm bệnh lên các đồ vật trong môi trường như bàn tay, đồ dùng, đồ chơi…
    Tác nhân gây tiêu chảy sống lâu trong môi trường nên có tính lây lan mạnh từ người sang người, dễ lây thành dịch, nhất là tại các trường mẫu giáo, tiểu học, những nơi công cộng, gia đình, bệnh viện.
    Vệ sinh phòng bệnh là chủ yếu vì bệnh lây theo con đường phân - miệng: Phân người bị bệnh làm nhiễm bẩn thức ăn, nước uống. Cá thể khác khi ăn uống phải thức ăn, nước uống này sẽ bị tiêu chảy.
    Vì vậy, rửa tay sạch trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh, ăn sạch, uống sôi, đặc biệt ở những nơi có người đang mắc bệnh là cách phòng bệnh tốt nhất.
    Với trẻ nhũ nhi, có thể uống vắc xin phòng Rota virus, nên uống vào tháng thứ 3 và tháng thứ 4, uống trước 6 tháng sẽ cho hiệu quả tốt nhất.
    Khi mắc bệnh, cần nhận biết những dấu hiệu sớm của bệnh. Nếu được điều trị, chăm sóc đúng và kịp thời, bệnh hoàn toàn khỏi không để lại hậu quả gì.
    Lần sửa cuối bởi songchungvoi_HIV, ngày 24-11-2013 lúc 11:56.

  21. Những thành viên đã cảm ơn songchungvoi_HIV cho bài viết này:

    Hon5thang (25-11-2013)

Thông tin về chủ đề này

Users Browsing this Thread

Có 1 người đang xem chủ đề. (0 thành viên và 1 khách)

Quyền viết bài

  • Bạn Không thể gửi Chủ đề mới
  • Bạn Không thể Gửi trả lời
  • Bạn Không thể Gửi file đính kèm
  • Bạn Không thể Sửa bài viết của mình
  •