TÌM HIỂU VỀ BỆNH U LYMPHÔ
TS.BS Phan Bích Liên
Trưởng khoa Huyết học - BV Chợ Rẫy
Thế nào là bệnh U Lymphô?
Bệnh U Lymphô (hay còn gọi là lymphoma) trong dân gian còn gọi là ung thư hạch. Đây là bệnh lý ung thư của hệ lymphô tức là hệ bạch huyết.
Hệ bạch huyết thuộc hệ tuần hoàn và là một phần của hệ miễn dịch nên có nhiệm vụ vừa chống lại các bệnh nhiễm trùng vừa cân bằng lượng dịch trong cơ thể. Hệ bạch huyết bao gồm: mạch bạch huyết, kế đến là các hạch bạch huyết và các tổ chức khác như Amiđan, tuyến ức, lách, tủy xương và các mô bạch huyết.
- Mạch bạch huyết: là một mạng lưới các ống, chia nhánh tỏa khắp cơ thể. Mạch bạch huyết chứa chất dịch gọi là dịch bạch huyết mang các tế bào lymphô đi khắp nơi trong cơ thể. Tế bào lymphô là một loại tế bào bạch cầu đảm nhiệm vai trò bảo vệ cơ thể. Khi có vi khuẩn hay những chất tác hại xâm nhập vào cơ thể, các tế bào này lập tức phản ứng để cô lập và tiêu diệt vi khuẩn.
- Hạch bạch huyết là các tuyến nhỏ nằm ở khắp nơi trong cơ thể. Mỗi hạch có thể có kích thước nhỏ cỡ đầu đinh ghim cho đến to bằng hạt đậu, thường xếp thành nhóm hay chuỗi, nằm ở cổ, nách, trong lồng ngực, khoang bụng và hai bên bẹn. Các hạch bạch huyết chính là các cơ quan sản xuất ra các tế bào lymphô và nếu từ các tế bào lymphô này phát triển bất thường sẽ sinh ra bệnh ung thư mà ta gọi là bệnh U lymphô.
- Ngoài ra, các tế bào lymphô còn có trong các tổ chức khác như Amiđan, tuyến ức, lách, tủy xương và các mô bạch huyết nằm trong các cơ quan trong cơ thể.
Bệnh U Lymphô là bệnh ung thư hệ bạch huyết xảy ra khi có sự sai lệch trong quá trình hình thành tế bào lymphô, tạo ra những tế bào lymphô bất thường mang các đặc điểm:
- Chúng sinh sản gấp nhiều lần so với sự sinh sản của tế bào bình thường.
- Các tế bào mới sinh ra không trưởng thành cũng không chết đi. Chúng lại tiếp tục sinh sản tạo ra các tế bào không có chức năng đến một lúc nào đó làm phá vỡ cấu trúc của các tổ chức bạch huyết, rõ nhất là các hạch bạch huyết, làm cho các hạch phì đại và to ra mà ta có thể sờ thấy được.
Dựa vào mô học, bệnh U lymphô được chia làm hai nhóm chính là bệnh Hodgkin và bệnh U lympho không Hodgkin. Hai loại này có triệu chứng gần giống nhau, đều có hạch to nhưng về tần suất thì Hodgkin ít gặp hơn so với U lymphô không Hodgkin và tiên lượng thì tốt hơn.
Bệnh U lymphô có thường gặp không?
Bệnh U lymhphô là một trong mười bệnh ung thư phổ biến nhất trên thế giới. Hiện nay có hơn 1 triệu người mắc bệnh U lymphô với khoảng 360.000 người mới được phát hiện hằng năm tương đương gần 1.000 người mỗi ngày. Ở phương Tây, tỷ lệ mắc bệnh cao hơn ở châu Á. Đối với nước ta, ước tính có khoảng hơn 2.400 người mới mắc bệnh ở đủ các lứa tuổi, cả nam lẫn nữ. Bệnh U lymphô đang trở thành mối đe dọa cho cộng đồng do nhiều hậu quả gây ra. Thế nhưng qua khảo sát tiến hành ở nhiều quốc gia cho thấy hơn 50% người dân chưa biết bệnh lý này và ở ta hiện đa số các trường hợp bệnh khi đến các cơ sở điều trị thường đã ở giai đoạn muộn nên việc điều trị còn gặp nhiều khó khăn.
Những nguyên nhân nào gây ra bệnh?
Nguyên nhân gây ra bệnh U lymphô cho đến nay vẫn chưa xác định rõ. Tuy nhiên qua nghiên cứu về dịch tễ học cho thấy có một số yếu tố nguy cơ được cho là liên quan đến bệnh U lymphô là:
- Yếu tố về miễn dịch: suy giảm miễn dịch bẩm sinh hay mắc phải (HIV/AIDS), thiếu sự điều hòa miễn dịch, bệnh tự miễn, bệnh nhân ghép tạng…
- Yếu tố nhiễm khuẩn: nhiễm vi rút Epstein Barr, HTLV, HCV, vi khuẩn Helicobacter pylori trong U lymphô dạ dày.
- Yếu tố hóa học: thuốc trừ sâu, diệt cỏ, khai hoang...
- Môi trường: làm việc trong các ngành công nghiệp gỗ, giấy, cao su, thuốc nhuộm…
Triệu chứng của bệnh U lymphô là gì?
Do các tế bào lymphô tập trung nhiều tại các hạch bạch huyết nên triệu chứng tại hạch thường gặp và rõ ràng nhất.
Tại hạch: Hạch càng ngày càng to ra, lúc đầu chỉ có thể một hạch sau lan ra một hay nhiều nhóm hạch, cuối cùng là hạch toàn thân. Hạch lúc đầu không đau hoặc chỉ đau nhẹ, càng về sau người bệnh có thể đau nhức nhiều do tế bào ung thư xâm lấn các tổ chức xung quanh. Hạch to thường dễ phát hiện nếu là hạch cổ, hạch nách, hạch bẹn.
Ngoài hạch : Nếu U lymphô xuất hiện ngoài hạch như ở dạ dày thì sẽ có triệu chứng như viêm lóet dạ dày, xuất huyết tiêu hóa (đi cầu phân đen), ở vùng bụng thì có triệu chứng đau vùng bụng, đau lưng.
Bệnh thường kèm theo các triệu chứng toàn thân như: sốt kéo dài nhưng không có dấu hiệu nhiễm trùng, đổ mồ hôi ban đêm, sụt cân hơn 10% trọng lượng cơ thể trong vòng 6 tháng.
Bệnh được chẩn đoán bằng cách nào?
Bệnh nhân khi có triệu chứng nghi ngờ sẽ được khám bệnh nhằm phát hiện hạch to, các đặc điểm của hạch cũng như tìm ra các ổ nhiễm trùng lân cận có thể là nguyên nhân gây ra hạch to.
Ngoài ra, tùy theo tình trạng của từng người mà bệnh nhân có thể được yêu cầu làm thêm các xét nghiệm như:
- Sinh thiết hạch
- Xét nghiệm hình ảnh học:
+ Chụp X-quang phổi
+ Cắt lớp điện toán (CT – scanner): cơ, ngực, bụng và cơ quan nào dễ ảnh huởng đến hạch bạch huyết
+ Cộng hưởng từ (MRI): xương, não, cột sống để đánh giá ung thư phát triển đến đâu
+ PET scan.
- Công thức máu, xét nghiệm gan, thận
- Xét nghiệm dịch não tủy (một loại dịch nằm trong não bộ và tủy sống)
- Khảo sát tủy
- Thử miễn dịch kháng nguyên có trên bề mặt tế bào ung thư (CD : Cluster Differential).
Đánh giá giai đoạn bệnh:
Bệnh được chia làm 4 giai đoạn. Mỗi giai đoạn, bệnh sẽ có tiên lượng và được điều trị bằng những phương pháp khác nhau.
Giai đọan I: chỉ có ở 1 hạch (đây là giai đoạn sớm)
Giai đoạn II: từ 2 hạch trở lên nhưng ở một bên cơ hoành
Giai đoạn III: từ 2 hạch trở lên nhưng ở hai bên cơ hoành
Giai đoạn IV: có lách to, đã xâm lấn một số cơ quan như tủy, xương, não…
Bệnh được điều trị ra sao?
Hiện có 5 phương pháp điều trị đang được áp dụng tùy thuộc vào từng giai đoạn của bệnh.
1/. Phẫu thuật :
Thường dùng để lấy mẫu mô xét nghiệm chẩn đoán (sinh thiết hạch). Tuy nhiên trong một số trường hợp như: U lymphô ở trung thất, dạ dày, tuyến giáp, hệ thần kinh trung ương hoặc ở đại tràng gây tắc ruột thì phẫu thuật cắt bỏ được thực hiện như một phương pháp điều trị và tùy trường hợp sẽ tiến hành hóa trị hay xạ trị kèm theo.
2/. Xạ trị :
Dùng tia X để diệt tế bào ung thư. Xạ trị được dùng khi bệnh được phát hiện ở giai đoạn sớm (giai đoạn 1 hay 2) và có thể phối hợp với trị liệu hoặc ở những vị trí mà thuốc, hóa chất không vào được như U lymphô ở hệ thần kinh trung ương.
3/. Hóa trị:
Dùng thuốc tiêm qua đường tĩnh mạch hoặc đường uống. Thuốc hóa trị sẽ vào máu và đến tất cả các cơ quan của cơ thể. Vì vậy việc địều trị rất có hiệu quả và thông dụng. Tùy trường hợp mà có thể dùng một loại thuốc (đơn hóa trị) hoặc nhiều loại thuốc (đa hóa trị). Bất lợi của hóa trị là thuốc diệt cả tế bào ác tính lẫn tế bào bình thường nên gây ra nhiều tác dụng phụ như: nôn ói, rụng tóc, đau họng, có khi chảy máu, thiếu máu và sốt nhiễm trùng.
4/. Miễn dịch trị liệu:
Dùng các kháng thể đặc hiệu để diệt tế bào u lympho, ngăn cản sự phát triển của tế bào ung thư và kích thích hệ thống miễn dịch của bệnh nhân chống lại các tổ chức ung thư hiệu quả hơn. Bình thường cơ thể có thể sản xuất ra kháng thể để chống lại các tác nhân gây viêm nhiễm như vi khuẩn, vi rút. Trong miễn dịch trị liệu người ta tạo ra các kháng thể đơn dòng để tiêu diệt các tế bào U lymphô.
Ví dụ: một số tế bào U lymphô trên bề mặt có dấu ấn gọi là CD20. Người ta tạo ra một loại kháng thể đặc hiệu gắn với dấu ấn CD20 này gọi là kháng thể đơn dòng. Kháng thể này sẽ tiêu diệt các tế bào lympho có chứa dấu ấn CD20. Do đó, chỉ có tế bào U lympho bị tiêu diệt còn tế bào bình thường không bị ảnh hưởng nên đạt được hiệu quả điều trị rất cao mà lại rất ít tác dụng phụ.
5/. Ghép tủy:
Khi bệnh nhân không đáp ứng với các phương pháp trị liệu đã nêu thì ghép tủy sẽ được xem xét thực hiện và là biện pháp trị liệu cuối cùng của bệnh U lymphô.