TÓM TẮT :Đặt vấn đề: Nhân viên y tế (NVYT) có nguy cơ cao bị phơi nhiễm do nghề nghiệp, đặc biệt với các bệnh nguyên qua đường máu. Tuy nhiên việc quản lý, theo dõi, và điều trị các phơi nhiễm cho NVYT còn chưa được thực hiện đầy đủ.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiền cứu theo dõi tất cả các trường hợp phơi nhiễm nghề nghiệp từ tháng 2/2000 đến tháng 6/2009.Can thiệp: Từ tháng 8/2001, chương trình quản lý và phòng ngừa phơi nhiễm do nghề nghiệp với các bệnh nguyên đường máu được bắt đầu tiến hành tại BVCR bao gồm: Triển khai hệ thống báo cáo rộng rãi tất cả trường hợp bị phơi nhiễm nghề nghiệp. Thiết lập bộ phận chuyên trách theo dõi và điều trị mọi phơi nhiễm thuộc khoa Kiểm Soát Nhiễm Khuẩn. Nhân viên y tế (NVYT) được yêu cầu báo cáo ngay sau khi bị phơi nhiễm, được theo dõi trong 12 tháng và điều trị đầy đủ theo đúng phác đồ điều trị dự phòng của CDC. Đào tạo liên tục cho nhân viên y tế về an toàn trong công viêc và quản lý phơi nhiễm. Cung cấp đầy đủ phương tiện phòng hộ cho nhân viên.
Kết quả: Từ 2/2000-6/2009, tổng số NVYT bị tai nạn nghề nghiệp làm phơi nhiễm với các bệnh nguyên đường máu trong khi thao tác là 327, trong đó phơi nhiễm trên bệnh nhân HIV dương tính là 65 trường hợp. Chủ yếu các trường hợp xảy ra là do kim hoặc dao đâm (244; 74, 8%) hoặc do máu và dịch tiết bắn vào mắt (53; 16,2%). Chưa có trường hợp nào chuyển huyết thanh dương tính với HIV và HCV. Có 1 trường hợp chuyển huyết thanh với HBV. Các trường hợp phân bố nhiều nhất ở khoa ngoại (124 trường hợp; 37.9%), thường gặp là điều dưỡng (116; 35,5%), học viên điều dưỡng hoặc sinh viên (48; 14,7%), nhân viên làm sạch (47; 14,4%) và BS ngoại (51; 15,6%). Thao tác khi xảy ra tai nạn đa số xảy ra trong phẫu thuật (44; 13,5%) hoặc trong các thao tác chăm sóc bệnh nhân như tiêm truyền (65; 19,9%), rút máu (27; 8,3%) hoặc trong lúc đậy nắp kim (39; 11,9%) và thu gom rác (49; 14,9%). Nguyên nhân thường gặp là do bất cẩn (236 trường hợp; 72,2%) và không tuân thủ phòng hộ qui định (81; 24,7%). Khi xảy ra tai nạn phơi nhiễm với HIV, 48,9% NVYT không biết bệnh nhân có nhiễm HIV trước đó. Tất cả trường hợp bị phơi nhiễm với HIV đều được điều trị phác đồ sau phơi nhiễm cơ bản (Zidovudine và Lamivudine) trong một tháng, có 26/76 trường hợp không dùng thuốc đủ. Nguyên nhân không điều trị đủ chủ yếu là do tác dụng phụ của thuốc. Các tác dụng phụ ghi nhận trong điều trị là nhức đầu, mệt mỏi, chóng mặt, buồn nôn. Từ sau khi triển khai huấn luyện và các biện pháp phòng hộ, số lượng nhân viên y tế bị tai nạn nghề nghiệp đã giảm xuống một cách đáng kể. Tỷ lệ NVYT bị phơi nhiễm với nguồn có HIV dương tính giảm có ý nghĩa. Tỷ lệ phơi nhiễm với nguồn có HIV là 0, 7/tháng năm 2000 và 1, 3/tháng 6 tháng đầu 2001. Sau khi áp dụng chương trình, tỷ lệ phơi nhiễm giảm xuống còn 0, 1/tháng năm 2002, 0,3/tháng năm 2004 và 0,3/tháng năm 2008 (P=0,007). Việc huấn luyện đào tạo lại thường xuyên liên quan đến tỷ lệ giảm theo năm. Tâm lý NVYT ổn định hơn sau khi bị tai nạn nghề nghiệp. Việc XN HIV đại trà không đúng quy định cũng giảm đi rõ rệt, từ 16% trong tổng số bệnh nhân nội trú năm 2001 xuống còn 5,7% năm 2008.
Kết luận: Nhằm bảo vệ cho nhân viên y tế, giảm tỷ lệ phơi nhiễm nghề nghiệp và tác hại sau phơi nhiễm, việc xây dựng chương trình phòng ngừa phơi nhiễm cho NVYT do khoa Kiểm soát Nhiễm khuẩn chuyên trách thực hiện là cần thiết. Việc quản lý, báo cáo, theo dõi và điều trị sau phơi nhiễm cần được tiến hành thường quy. Tuân thủ các quy tắc kiểm soát nhiễm khuẩn, đặc biệt phòng ngừa chuẩn là yếu tố quan trọng trong phòng phơi nhiễm nghề nghiệp, đặc biệt đối với các bệnh nguyên đường máu.
|