Kết quả 1 đến 20 của 210

Chủ đề: Các bệnh lây qua đường tình dục.

Hybrid View

  1. #1
    Thành viên năng động nhiệt tình.
    Ngày tham gia
    18-07-2009
    Giới tính
    Nam
    Đến từ
    Tp.HCM
    Bài viết
    47,922
    Cảm ơn
    2,578
    Được cảm ơn: 11,969 lần
    Khái niệm

    Giang mai (syphilis) là một bệnh lây truyền qua đường tình dục do xoắn khuẩn Treponema pallidum (xoắn khuẩn giang mai) gây ra. Đường lây truyền của bệnh giang mai hầu như luôn luôn là qua đường tình dục, mặc dù có những ca thí dụ về bệnh giang mai bẩm sinh do truyền từ mẹ sang con trong tử cung hoặc khi sinh.
    Các dấu hiệu và triệu chứng của bệnh giang mai rất nhiều, do đó trước khi phương pháp xét nghiệm huyết thanh học ra đời thì việc chẩn đoán chính xác bệnh giang mai rất khó khăn bởi vì nó thường bị nhầm lẫn với các bệnh khác, đặc biệt là trong giai đoạn 3.



    Các giai đoạn phát triển và triệu chứng

    Bệnh giang mai phát triển theo bốn giai đoạn chính: giai đoạn I

    giai đoạn II

    giai đoạn tiềm ẩn (III)

    giai đoạn IV



    Giai đoạn I
    Đây là giai đoạn rất quan trọng để phát hiện và điều trị kịp thời. Khoảng 3-90 ngày sau khi tiếp xúc với nguồn bệnh (trung bình 21 ngày), sẽ xuất hiện tổn thương da ở các điểm tiếp xúc. Vết loét xuất hiện ở những nơi tiếp xúc với xoắn khuẩn giang mai, thường là ở bộ phận sinh dục như: môi lớn, môi bé, âm đạo, cổ tử cung, quy đầu, dương vật hoặc trực tràng. Tổn thương này, được gọi là hạ cam, là một dạng viêm loét, không ngứa, không đau, không có mủ. Các triệu chứng trên có thể tự biến đi sau 3 đến 6 tuần lễ kể cả không điều trị nên nhiều người tưởng lầm là khỏi bệnh nhưng thực sự là vi khuẩn lúc đó đã vào máu, bệnh vẫn tiếp tục phát triển với những biểu hiện khác.

    Giai đoạn II
    Giai đoạn 2 xảy ra từ 4 đến 10 tuần sau giai đoạn 1. Giai đoạn này có rất nhiều biểu hiện khác nhau, ví dụ như: nốt ban đối xứng, màu hồng như hoa đào (đào ban) không ngứa trên toàn thân hoặc tứ chi bao gồm cả lòng bàn tay, bàn chân, hình ảnh đào ban màu đỏ hồng hoặc hồng tím như cánh hoa đào, ấn vào thì mất, không nổi cao trên mặt da, không bong vảy và tự mất đi. Thường khu trú hai bên mạng sườn, ngực, bụng, chi trên. Đào ban xuất hiện dần trong vòng 1 đến 2 tuần, tồn tại không thay đổi trong vòng 1-3 tuần sau đó nhạt màu dần rồi mất đi.



    Giai đoạn III
    Giang mai tiềm ẩn được xác định khi có bằng chứng huyết thanh của bệnh nhưng không có dấu hiệu hoặc triệu chứng của bệnh. Giai đoạn này chia làm 2 loại: thời gian tiềm ẩn dưới 1 năm sau giai đoạn 2 (sớm) và thời gian tiềm ẩn kéo dài hơn 1 năm sau giai đoạn 2 (muộn). Giang mai tiềm ẩn sớm có thể tái phát các triệu chứng bệnh, giang mai tiềm ẩn muộn không có triệu chứng và không lây bằng giang mai tiềm ẩn sớm.

    Giai đoạn IV
    Giang mai giai đoạn 3 có thể xảy ra khoảng 3-15 năm sau những triệu chứng của giai đoạn 1 và được chia thành ba hình thức khác nhau: giang mai thần kinh (6,5%), giang mai tim mạch (10%) và củ giang mai (15%). Những người bị bệnh giang mai giai đoạn này không lây bệnh.


    Đường lây truyền là đường trực tiếp tiếp xúc giữa người bệnh và người lành hoặc gián tiếp qua đồ vật. Ta có thể khái quát có 3 đường chính sau:

    —» Lây truyền qua đường tình dục.
    —» Lây truyền qua đường máu(tiêm truyền máu hoặc tiêm chích ma tuý mà bơm tiêm không vô khuẩn).
    —» Truyền từ mẹ sang con (qua nhau thai từ tháng thứ 4 trở đi).




    Giang mai lây truyền từ mẹ sang con

    Theo nghiên cứu thì tỉ lệ tử vong của những đứa trẻ nằm trong bụng những bà mẹ bị giang mai khi mang bầu là khoảng 25%. Tỉ lệ truyền bệnh giang mai cho thai nhi rơi vào khoảng 40 đến 70%.
    Trong số những đứa trẻ không may mắn bị mắc bệnh này, một số trẻ sơ sinh có biểu hiện phát bệnh ngay khi vừa sinh ra. Còn lại hầu hết các triệu chứng này sẽ phát triển rõ khi trẻ được hai tuần hoặc ba tháng. Những triệu chứng dễ thấy bao gồm phát ban, đau ngoài da, sốt, mệt mỏi hoặc khóc khàn giọng. Bác sĩ thăm khám sẽ thấy các bé có biểu hiện sưng gan và lá lách, vàng da, thiếu máu và một loạt các dấu hiệu khác.
    Cũng có khi có một vài trường hợp các dấu hiệu của bệnh không phát ra ngoài khi ở trẻ sơ sinh. Mầm mống bệnh ẩn giấu bên trong cho đến khi trẻ lớn hơn hoặc khi vào tuổi thành niên thì các triệu chứng bệnh chuyển sang giai đoạn sau và rất có thể sẽ ảnh hưởng đến xương khớp, răng lợi, mắt, tai và não bộ.

    Tác hại của bệnh giang mai
    Nếu không được điều trị, giang mai có thể gây hại cho tim mà ta có thể nhập suy tim trầm trọng. Nó cũng có thể gây ra các vấn đề về thần kinh như đột quỵ và động kinh và cuối cùng có thể dẫn đến mù lòa. Nghiên cứu cho thấy rằng bệnh giang mai mà vẫn không được điều trị có thể làm cho một người nhạy cảm hơn với các bệnh khác lây truyền qua đường tình dục như HIV . Ngoài ra, phụ nữ mang thai mắc bệnh giang mai có thể được để lại cho hậu quả của việc đi qua các nhiễm trùng đứa con chưa sinh của họ.

    Nếu không được điều trị, vi khuẩn giang mai có thể gây ra thiệt hại nghiêm trọng đến tim, não, mắt, hệ thần kinh, xương và khớp. Nó có thể dẫn đến mất trí nhớ, thiếu kiểm soát trên những phong trào, mù một phần hoặc hoàn toàn, chứng phình động mạch não và tử vong. Một hậu quả khác có thể có của bệnh giang mai là làm tăng nguy cơ lây nhiễm HIV. Bởi vì các vết loét mở liên quan với căn bệnh này, nó dễ dàng hơn để bạn có thể trở thành bị nhiễm virus HIV. Nếu bạn bị nhiễm với vi khuẩn giang mai, bạn có nhiều khả năng bị nhiễm virus HIV, virus gây ra bệnh AIDS.

    Giang mai có thể chữa khỏi được không?
    Theo các bác sĩ chuyên khoa của phòng khám đa khoa Khương Trung cho biết: Bệnh giang mai chỉ cần sử dụng thuốc đúng liều lượng và sớm theo từng giai đoạn thì bệnh có thể điều trị dứt điểm. Nhằm tránh những ảnh hưởng của bệnh đối với sức khoẻ của chúng ta, thì nhất định cần phải làm tốt các biện pháp phòng tránh và tuân thủ pháp đồ điều trị của bác sĩ, nhằm đảm bảo và tránh lây cho người thân trong gia đình.

    Chỉ cần phát hiện bệnh sớm và điều trị kịp thời thì bệnh có thể điều trị khỏi. Trong quá trình điều trị và sau khi điều trị khỏi bệnh cần định kỳ tiến hành kiểm tra và xét nghiệm, hai người có quan hệ tình dục phải cùng tiến hành kiểm tra và cùng điều trị. Khi bệnh đang trong giai đoạn đầu khi điều trị khỏi có thể tránh lây nhiễm cho đối phương, đối với những bệnh nhân khi điều trị bệnh theo đúng phác đồ thì 6 tháng sau các chỉ số USR, RPR hoặc VDRL trong xét nghiệm bệnh giang mai đều có kết quả âm tính hoặc số lượng viruts đã giảm rõ rệt, nếu lượng kháng thể trong máu lại tăng lên chứng tỏ máu đã trở lại trạng thái bình thường. Khi bệnh giang mai trong giai đoạn cuối thì các vùng viêm sẽ thu hẹp dần dần và mất đi, nhưng những vùng tế bào bị vỡ không thể hồi phục lại như bình thường mà có thể để lại sẹo.


    Phòng ngừa

    Hiện nay vẫn chưa vác xin chủng ngừa có hiệu quả cho công tác phòng chống. Không nên quan hệ tình dục hay tiếp xúc vật lý trực tiếp với một người bị bệnh để tránh lây truyền bệnh giang mai, có thể sử dụng bao cao su đúng cách, tuy nhiên vẫn có thể không hoàn toàn an toàn. Giang mai không lây qua nhà vệ sinh, các hoạt động hàng ngày, bồn tắm, hay dụng cụ ăn uống hoặc quần áo.

    ads

  2. Những thành viên đã cảm ơn songchungvoi_HIV cho bài viết này:

    giuptuvanhiv (07-11-2013)

  3. #2
    Thành viên năng động nhiệt tình.
    Ngày tham gia
    18-07-2009
    Giới tính
    Nam
    Đến từ
    Tp.HCM
    Bài viết
    47,922
    Cảm ơn
    2,578
    Được cảm ơn: 11,969 lần
    Oan ức chỉ vì gai sinh dục
    Thu Hiền, 27 tuổi (Trung Kính, Yên Hòa, Cầu Giấy) đang chuẩn bị kết hôn với Thắng, người mà cô đã yêu được hơn ba năm. Nhưng có một sự cố bất ngờ xảy ra khiến Hiền bị người yêu nghi oan và suýt nữa thì đám cưới bị hoãn vô thời hạn.
    Oan ức vì... gai sinh dụcThực ra, dù chưa làm đám cưới nhưng Hiền và Thắng đã “ăn cơm trước kẻng”. Trước đám cưới ít lâu, Hiền phát hiện vùng kín của mình có biểu hiện khác lạ, xuất hiện nhiều nốt mẩn tròn nhỏ, lốm đốm, khi sờ vào thấy gợn tay. Tất nhiên là Thắng cũng nhanh chóng phát hiện ra điều này. Kiểm tra lại mình, Thắng không thấy có gì khác lạ nên nghi ngờ Hiền không chung thủy với mình, dẫn đến bị lây bệnh. Còn bản thân Hiền cũng không biết giải thích ra sao ngoài câu "em không làm gì có lỗi với anh".

    Hiền đi khám và thở phào khi bác sĩ thông báo kết quả là cô bị gai sinh dục, một dạng dị tật tự phát, không phải là bệnh lây qua đường tình dục. Nỗi oan được giải, đám cưới tiến hành theo đúng dự kiến.
    Sợ lây bệnh qua… tay người yêu Tương tự là trường hợp của Việt Thi, 21 tuổi, sinh viên một trường đại học ở Hà Nội. Thi có bạn trai được hơn một năm nay. Tuy hai người chưa có quan hệ tình dục nhưng những lần đi chơi, Thi đã để cho bạn trai "âu yếm" bằng tay. Gần đây, cô bỗng thấy vùng kín xuất hiện các nốt sần lấm tấm giống như mọc rôm, không thấy có biểu hiện đau hay ngứa. Thi rất lo lắng, nghĩ mình đã bị lây bệnh tình dục qua… tay của người yêu nên đã vội vàng vào bệnh viện khám. Bác sĩ cho biết, hiện tượng này được gọi là gai sinh dục.

    Không chỉ ở nữ mà gai sinh dục còn có cả ở nam giới. Trường hợp của anh Trí (35 tuổi) sau đây là một ví dụ. Một ngày, Trí thấy “dụng cụ” của mình xuất hiện từng đám gai li ti màu đỏ, trông rất “có vấn đề”. Dù anh khẳng định chưa bao giờ phản bội nhưng vợ không tin. Để chứng minh,Trí vội vàng đi khám và cũng được chẩn đoán là gai sinh dục.
    Tuy cuối cùng cũng chứng minh được sự trong sáng của mình nhưng anh cũng mất một thời gian dài lo lắng khiến chuyện chăn gối bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Cả hai vợ chồng đều cảm thấy không tự tin mỗi lần "gần gũi" nhau. Có thể sống chung với… “gai”Theo bác sĩ Lê Thị Kim Dung, Trung tâm Y tế Thái Hà, Hà Nội, gai sinh dục không phải bệnh truyền qua đường tình dục. Nó là một dạng quá phát các tế bào gai ở cơ quan sinh dục và không có khả năng lây từ người này sang người kia.

    Có thể giải thích hiện tượng “mọc gai” này thông qua hình dung về cấu tạo da như sau: Phần thượng bì (là lớp ngoài cùng của da) gồm lớp tế bào sừng, lớp hạt, lớp gai và lớp đáy. Trong các tế bào gai ở trên cùng của lớp gai có các tổ chức hạt. Đây là cơ quan có chức năng bài tiết lipid, giúp tránh khô da. Tế bào gai có hình đa giác, nhân tròn.
    Hiện tượng gai sinh dục xuất hiện khi các tế bào gai này phát triển đột biến (nguyên nhân chưa được giải thích rõ ràng), vượt lên bề mặt của da, tạo các nốt mụn nhỏ, khi sờ thấy gợn tay. Khi hiện tượng này xuất hiện ở cơ quan sinh dục, nhiều người tưởng nhầm là bệnh hoa liễu như mụn rộp, sùi mào gà…

    Bác sĩ Dung cho biết, gai sinh dục có thể gặp ở cả nam và nữ với các biểu hiện: xuất hiện các nốt nhỏ màu trắng hoặc đỏ ở một phần hoặc toàn bộ vùng sinh dục. Các nốt gai này không gây đau đớn hay bất kỳ cảm giác nào khác ngoài việc ảnh hưởng đến tâm lý. Bản thân người bị gai sinh dục mất tự tin trong "chuyện ấy", và “đối tác” cũng có cảm giác “sợ” hay ngại ngần, dẫn đến làm giảm chất lượng và sự thành công trong sinh hoạt tình dục.
    Đi khám với các biểu hiện “bất thường” này, bệnh nhân sẽ được bác sĩ cho làm xét nghiệm VA để phân biệt với bệnh lây lan qua đường tình dục khác. Nếu đúng chỉ là gai sinh dục, bác sĩ sẽ tư vấn tâm lý để bệnh nhân yên tâm “sống chung với…gai” vì nó không phải là bệnh. Nó hầu như không ảnh hưởng gì đến sức khỏe sinh sản và mọi chức năng khác của cơ quan sinh dục. Tuy nhiên, nếu vẫn không thoải mái với những chiếc gai đáng ghét này thì các bác sĩ có thể xử lý chúng bằng một số phương pháp như đốt nóng, đốt lạnh để hủy chúng đi.

    Tuy nhiên bác sĩ Dung cũng lưu ý, nếu ngoài việc xuất hiện gai còn có thêm một số biểu hiện khác như đau rát, ngứa ngáy hay có mùi khó chịu ở vùng sinh dục thì nên nghĩ đến khả năng có bệnh, cần đi khám ngay để được điều trị kịp thời.



  4. #3
    Thành viên năng động nhiệt tình.
    Ngày tham gia
    18-07-2009
    Giới tính
    Nam
    Đến từ
    Tp.HCM
    Bài viết
    47,922
    Cảm ơn
    2,578
    Được cảm ơn: 11,969 lần
    Vùng kín... mọc gai

    Không lâu trước ngày cưới, Hiền phát hiện "chỗ ấy" có nhiều nốt mẩn tròn nhỏ, lốm đốm, sờ vào thấy gợn tay. Cô sợ hãi không hiểu sao mình "trong sạch" mà vẫn có bệnh.

    Thu Hiền, 27 tuổi (Trung Kính, Yên Hòa, Cầu Giấy) đang chuẩn bị kết hôn với Thắng, người mà cô đã yêu được hơn ba năm. Nhưng có một sự cố bất ngờ xảy ra khiến Hiền bị người yêu nghi oan và suýt nữa thì đám cưới bị hoãn vô thời hạn.
    Oan ức vì... gai sinh dục
    Thực ra, dù chưa làm đám cưới nhưng Hiền và Thắng đã “ăn cơm trước kẻng”. Trước đám cưới ít lâu, Hiền phát hiện vùng kín của mình có biểu hiện khác lạ, xuất hiện nhiều nốt mẩn tròn nhỏ, lốm đốm, khi sờ vào thấy gợn tay. Tất nhiên là Thắng cũng nhanh chóng phát hiện ra điều này. Kiểm tra lại mình, Thắng không thấy có già khác lạ nên nghi ngờ Hiền không chung thủy với mình, dẫn đến bị lây bệnh. Còn bản thân Hiền cũng không biết giải thích ra sao ngoài câu "em không làm gì có lỗi với anh".

    Hiền đi khám và thở phào khi bác sĩ thông báo kết quả là cô bị gai sinh dục, một dạng dị tật tự phát, không phải là bệnh lây qua đường tình dục. Nỗi oan được giải, đám cưới tiến hành theo đúng dự kiến.


    Ảnh minh họa

    Sợ lây bệnh qua… tay người yêu
    Tương tự là trường hợp của Việt Thi, 21 tuổi, sinh viên một trường đại học ở Hà Nội. Thi có bạn trai được hơn một năm nay. Tuy hai người chưa có quan hệ tình dục nhưng những lần đi chơi, Thi đã để cho bạn trai "âu yếm" bằng tay. Gần đây, cô bỗng thấy vùng kín xuất hiện các nốt sần lấm tấm giống như mọc rôm, không thấy có biểu hiện đau hay ngứa. Thi rất lo lắng, nghĩ mình đã bị lây bệnh tình dục qua… tay của người yêu nên đã vội vàng vào bệnh viện khám. Bác sĩ cho biết, hiện tượng này được gọi là gai sinh dục.

    Không chỉ ở nữ mà gai sinh dục còn có cả ở nam giới. Trường hợp của anh Trí (35 tuổi) sau đây là một ví dụ. Một ngày, Trí thấy “dụng cụ” của mình xuất hiện từng đám gai li ti màu đỏ, trông rất “có vấn đề”. Dù anh khẳng định chưa bao giờ phản bội nhưng vợ không tin. Để chứng minh,Trí vội vàng đi khám và cũng được chẩn đoán là gai sinh dục.
    Tuy cuối cùng cũng chứng minh được sự trong sáng của mình nhưng anh cũng mất một thời gian dài lo lắng khiến chuyện chăn gối bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Cả hai vợ chồng đều cảm thấy không tự tin mỗi lần "gần gũi" nhau.
    Có thể sống chung với… “gai”

    Theo bác sĩ Lê Thị Kim Dung, Trung tâm Y tế Thái Hà, Hà Nội, gai sinh dục không phải bệnh truyền qua đường tình dục. Nó là một dạng quá phát các tế bào gai ở cơ quan sinh dục và không có khả năng lây từ người này sang người kia.

    Có thể giải thích hiện tượng “mọc gai” này thông qua hình dung về cấu tạo da như sau: Phần thượng bì (là lớp ngoài cùng của da) gồm lớp tế bào sừng, lớp hạt, lớp gai và lớp đáy. Trong các tế bào gai ở trên cùng của lớp gai có các tổ chức hạt. Đây là cơ quan có chức năng bài tiết lipid, giúp tránh khô da. Tế bào gai có hình đa giác, nhân tròn.
    Hiện tượng “gai” sinh dục xuất hiện khi các tế bào gai này phát triển đột biến (nguyên nhân chưa được giải thích rõ ràng), vượt lên bề mặt của da, tạo các nốt mụn nhỏ, khi sờ thấy gợn tay. Khi hiện tượng này xuất hiện ở cơ quan sinh dục, nhiều người tưởng nhầm là bệnh hoa liễu như mụn rộp, sùi mào gà…

    Bác sĩ Dung cho biết, gai sinh dục có thể gặp ở cả nam và nữ với các biểu hiện: xuất hiện các nốt nhỏ màu trắng hoặc đỏ ở một phần hoặc toàn bộ vùng sinh dục. Các nốt gai này không gây đau đớn hay bất kỳ cảm giác nào khác ngoài việc ảnh hưởng đến tâm lý. Bản thân người bị gai sinh dục mất tự tin trong "chuyện ấy", và “đối tác” cũng có cảm giác “sợ” hay ngại ngần, dẫn đến làm giảm chất lượng và sự thành công trong sinh hoạt tình dục.
    Đi khám với các biểu hiện “bất thường” này, bệnh nhân sẽ được bác sĩ cho làm xét nghiệm VA để phân biệt với bệnh lây lan qua đường tình dục khác. Nếu đúng chỉ là gai sinh dục, bác sĩ sẽ tư vấn tâm lý để bệnh nhân yên tâm “sống chung với…gai” vì nó không phải là bệnh. Nó hầu như không ảnh hưởng gì đến sức khỏe sinh sản và mọi chức năng khác của cơ quan sinh dục. Tuy nhiên, nếu vẫn không thoải mái với những chiếc gai đáng ghét này thì các bác sĩ có thể xử lý chúng bằng một số phương pháp như đốt nóng, đốt lạnh để hủy chúng đi.

    Tuy nhiên bác sĩ Dung cũng lưu ý, nếu ngoài việc xuất hiện gai còn có thêm một số biểu hiện khác như đau rát, ngứa ngáy hay có mùi khó chịu ở vùng sinh dục thì nên nghĩ đến khả năng có bệnh, cần đi khám ngay để được điều trị kịp thời.


    Theo Đất Việt

  5. Những thành viên đã cảm ơn songchungvoi_HIV cho bài viết này:

    huy (18-11-2013)

  6. #4
    Thành viên năng động nhiệt tình.
    Ngày tham gia
    18-07-2009
    Giới tính
    Nam
    Đến từ
    Tp.HCM
    Bài viết
    47,922
    Cảm ơn
    2,578
    Được cảm ơn: 11,969 lần
    Viêm âm đạo Trichomonas

    Trichomonas là do động vật nguyên sinh đơn bào, một loại ký sinh trùng rất nhỏ, mà đi du lịch giữa con người trong quá trình giao hợp. Thời kỳ ủ bệnh giữa phơi nhiễm và nhiễm trùng có thể là từ năm đến 28 ngày.Định nghĩaTrichomonas là bệnh nhiễm trùng qua đường tình dục mà phụ nữ có thể gây ra dịch xả mùi hôi âm đạo, ngứa bộ phận sinh dục và đi tiểu đau đớn. Nam giới có Trichomonas thường không có triệu chứng. Phụ nữ mang thai có Trichomonas có nguy cơ cao hơn của việc sinh sớm.Để ngăn ngừa tái nhiễm với các sinh vật gây nhiễm Trichomonas, cả hai đối tác cần được điều trị. Việc điều trị phổ biến nhất cho trichomonas bao gồm việc uống megadose của metronidazole (Flagyl). Nhiễm trùng có thể được ngăn ngừa bằng cách sử dụng bao cao su và chất diệt tinh trùng.Các triệu chứngTrichomonas các triệu chứng đối với phụ nữ bao gồm:Nhiều và thường có mùi hôi dịch tiết âm đạo - có thể có màu trắng, xám, vàng hoặc xanh lá cây.Bộ phận sinh dục bị đỏ, rát và ngứa.Đau với đi tiểu hoặc quan hệ tình dục.Các dấu hiệu và triệu chứng có thể xấu đi trong thời gian kinh nguyệt. Nhưng một số phụ nữ bị nhiễm trichomonas không có bất kỳ triệu chứng. Đàn ông bị nhiễm Trichomonas hiếm khi thể hiện triệu chứng, nhưng có thể đi tiểu đau.Đến gặp bác sĩ khiĐi khám bác sĩ nếu có xả dịch mùi hôi âm đạo, hoặc nếu bị đau với đi tiểu hoặc quan hệ tình dục.Nguyên nhânTrichomonas là do động vật nguyên sinh đơn bào, một loại ký sinh trùng rất nhỏ, mà đi du lịch giữa con người trong quá trình giao hợp. Thời kỳ ủ bệnh giữa phơi nhiễm và nhiễm trùng có thể là từ năm đến 28 ngày.Yếu tố nguy cơCác yếu tố rủi ro bao gồm:Có nhiều bạn tình.Lịch sử các bệnh khác qua đường tình dục.Tập trước của trichomonas.Các biến chứngPhụ nữ mang thai có Trichomonas có thể:Sinh sớm.Có con với cân nặng thấp.Truyền bệnh cho em bé khi nó đi qua các ống sinh.Có Trichomonas cũng xuất hiện để làm dễ dàng hơn cho phụ nữ bị nhiễm HIV, virus gây bệnh AIDS.Các xét nghiệm và chẩn đoánViệc chẩn đoán nhiễm Trichomonas có thể được xác nhận bằng cách nhìn vào một mẫu chất dịch âm đạo dưới kính hiển vi. Nếu mẫu tươi và giữ ấm, các động vật nguyên sinh rất dễ nhìn thấy và sẽ di chuyển.Phương pháp điều trị và thuốcViệc điều trị phổ biến nhất cho Trichomonas là nuốt một liều thuốc của một trong hai metronidazole (Flagyl) hoặc tinidazole (Tindamax). Trong khi có những loại kem hay gel có thể được chèn vào trong âm đạo để điều trị các nhiễm trùng, uống thuốc bằng miệng là hiệu quả hơn nhiều.Cả hai đối tác nên được điều trị, và cả hai đều nên tránh quan hệ tình dục không bảo vệ cho đến khi nhiễm trùng được chữa khỏi, mất khoảng một tuần.Tác dụng phụ của thuốc có thể bao gồm:Buồn nôn.Ói mửa.Nhức đầu.Hương vị kim loại.Chóng mặt.Không nên uống rượu trong 24 giờ sau khi dùng metronidazole hoặc 72 giờ sau khi dùng tinidazole, bởi vì nó có thể gây buồn nôn nặng và ói mửa.Phòng chốngCác phương pháp ngăn ngừa nhiễm Trichomonas cũng giống như những người ngăn ngừa các bệnh khác qua đường tình dục - kiêng quan hệ tình dục, hoặc sử dụng bao cao su và chất diệt tinh trùng.



  7. #5
    Thành viên năng động nhiệt tình.
    Ngày tham gia
    18-07-2009
    Giới tính
    Nam
    Đến từ
    Tp.HCM
    Bài viết
    47,922
    Cảm ơn
    2,578
    Được cảm ơn: 11,969 lần
    Viêm âm đạo do trùng roi (trichomonas)

    Nguyên nhân gây bệnh
    Bệnh do ký sinh trùng loại trùng roi Trichomonas vaginalis thường gặp ở phụ nữ. Trùng roi ký sinh ở âm đạo, trong dịch tiết âm đạo, các nếp nhăn của da ở bộ phận sinh dục, gây nên các triệu chứng viêm nhiễm đường sinh dục. Ở nam giới, trùng roi cũng có thể gây viêm đường sinh dục nhưng triệu chứng lâm sàng không rõ ràng mặc dù bị nhiễm ký sinh trùng. Ngoài âm đạo, trùng roi còn ký sinh ở những nơi khác như buồng trứng, vòi trứng, tử cung, niệu đạo, niệu quản, bàng quang, bể thận… để gây bệnh. Mặc dù trùng roi có thể ký sinh ở nhiều vị trí khác nhau nhưng ở âm đạo chúng vẫn chiếm tỷ lệ cao nhất và đóng vai trò quan trọng trong nguyên nhân gây bệnh phụ khoa ở phụ nữ.

    Điều kiện mắc bệnh
    Trùng roi Trichomonas vaginalis chỉ có một vật chủ là người và phụ nữ là đối tượng dễ bị mắc bệnh vì các điều kiện xã hội và sinh hoạt có liên quan. Ở các nước có tệ nạn mại dâm phát triển thì tỷ lệ nhiễm bệnh cũng tăng cao. Vấn đề vệ sinh cá nhân phụ nữ như tắm rửa ở nước ao hồ hoặc sử dụng các nguồn nước, đồ dùng, quần áo… bị nhiễm bẩn; trùng roi có thể xâm nhập vào đường sinh dục và gây bệnh. Hiện nay người ta quan niệm rằng bệnh trùng roi âm đạo là một bệnh hoa liễu vì vị trí ký sinh của ký sinh trùng gây bệnh thường ở đường sinh dục và tiết niệu, bệnh lây truyền trực tiếp do giao hợp là chủ yếu.

    Triệu chứng và biến chứng của bệnh
    Trên thực tế, phương thức lây truyền bệnh trực tiếp chủ yếu là do giao hợp không bảo đảm vệ sinh. Khi bị mắc bệnh trùng roi âm đạo, bệnh nhân thường có những biểu hiện lâm sàng khác nhau. Lúc ban đầu mới bị bệnh, triệu chứng thể hiện cấp tính như ngứa ngáy nhiều ở âm đạo, âm hộ, khí hư ở âm đạo chảy ra rất nhiều, có dịch mủ vàng hoặc xanh, nặng mùi, âm đạo bị đau như kim châm, sưng đỏ, viêm tấy, có nhiều nơi bị loét. Sau đó, bệnh chuyển sang thể bán cấp và mạn tính, thường không có viêm tấy và thành thể trường diễn kéo dài. Trên lâm sàng, các triệu chứng thường gặp ở bệnh nhân là có khí hư chảy ra nhiều, màu trắng đục, nhày dính, có bọt; âm đạo, âm hộ bị đỏ, rát nhất là khi có kinh nguyệt, niêm mạc âm đạo có hiện tượng sung huyết, đôi khi tụ huyết, có những nốt đỏ rất nhỏ; người bệnh rất ngứa ngáy, rấm rứt khó chịu… Đôi khi các triệu chứng này không thể hiện đầy đủ trong một số trường hợp bệnh nhân bị mắc bệnh.

    Bệnh trùng roi âm đạo do Trichomonas vaginalis nếu không được phát hiện, chữa trị kịp thời thì tình trạng viêm âm đạo kéo dài lâu ngày có thể gây nên các biến chứng như viêm buồng trứng, vòi trứng làm cho bệnh nhân đau đớn, có hiện tượng bị rong kinh; cổ tử cung cũng có thể bị viêm loét, đau, ngứa, niêm mạc sưng đỏ. Vô sinh cũng là một biến chứng thường gặp do trùng roi tiết ra chất nhày, tạo thành nút bao bọc và bít kín cổ tử cung, ngăn cản không cho tinh trùng xâm nhập vào để thụ tinh nên không thể thụ thai được. Ngoài ra, bệnh cũng có thể gây nên biến chứng viêm nhiễm đường tiết niệu với biểu hiện lâm sàng rõ hoặc không rõ. Ở một số trường hợp người phụ nữ bị bệnh trùng roi âm đạo, khi đi tiểu thường thấy đau buốt, có chất dịch mủ và tìm thấy ký sinh trùng trong nước tiểu.

    Điều trị và phòng bệnh
    Để điều trị bệnh trùng roi âm đạo Trichomonas vaginalis có hiệu quả cần phải bảo đảm các nguyên tắc cơ bản là thường xuyên vệ sinh bộ phận sinh dục để làm giảm mức độ viêm nhiễm, điều trị cho cả vợ lẫn chồng vì bệnh có thể lây truyền từ vợ sang chồng và ngược lại; đồng thời trong thời gian điều trị tuyệt đối không được giao hợp để hạn chế điều kiện và cơ hội lây truyền bệnh thì mới có kết quả mong muốn. Trong chỉ định điều trị, thầy thuốc thường dùng các loại thuốc diệt trùng roi phối hợp với các thuốc diệt nấm và vi khuẩn vì qua quá trình điều trị trùng roi, môi trường âm đạo có thể thay đổi làm cho nấm và vi khuẩn có điều kiện phát triển để gây bệnh. Thuốc đặc hiệu điều trị trùng roi âm đạo thường dùng là tinidazol, nimorazol, ornidazol (uống) và metronidazol (đặt âm đạo). Các thuốc phối hợp để ngăn ngừa, chống nấm thường sử dụng fluconazol, nystatin, amphotericin B…

    Để phòng tránh bị mắc bệnh trùng roi âm đạo, cần có biện pháp kiểm soát và thanh toán tệ nạn mại dâm, có quan hệ tình dục an toàn, lành mạnh và chung thủy; tăng cường các điều kiện, tiện nghi vệ sinh cho phụ nữ ở gia đình, nơi học tập, lao động và công tác. Đồng thời cũng cần tích cực phát hiện, điều trị những người mắc bệnh để chủ động khống chế sự lây truyền bệnh.

  8. #6
    Thành viên năng động nhiệt tình.
    Ngày tham gia
    18-07-2009
    Giới tính
    Nam
    Đến từ
    Tp.HCM
    Bài viết
    47,922
    Cảm ơn
    2,578
    Được cảm ơn: 11,969 lần
    Bệnh lậu và những điều cần biết
    Bệnh lậu mủ (hay lậu) là một trong những bệnh lây truyền qua đường tình dục hàng đầu trên thế giới, do vi khuẩn Gram âm Neisseria gonorrhoeae gây ra.


    Nội dung chi tiết

    1 Triệu chứng

    Viêm niệu đạo do lậu có thời gian ủ bệnh từ 3 đến 5 ngày. Đa số nam giới bị bệnh lậu mủ thường có triệu chứng ra mủ nhiều, màu vàng hoặc vàng xanh, tại niệu đạo, kèm theo đái buốt, đái dắt. Nếu không điều trị kịp thời sẽ dẫn đến lậu mạn tính với các biến chứng thường gặp như viêm mào tinh hoàn, viêm tuyến tiền liệt, có thể dẫn tới trạng vô sinh. Biểu hiện bệnh cấp tính ở nữ có những triệu chứng như đái buốt, mủ chảy ra từ trong niệu đạo, cổ tử cung, mầu nâu, vàng hoặc xanh, số lượng nhiều, có mùi hôi. Nhưng vì 50-80% trường hợp bệnh lậu ở nữ không có triệu chứng hoặc triệu chứng không rõ ràng, bệnh nhân nữ hay lậu mạn tính viêm vùng chậu, bị các biến chứng như viêm ống dẫn trứng đến vô sinh và chửa ngoài tử cung. Phụ nữ đang có thai bị lậu không được điều trị có thể bị xẩy thai và gây lậu mắt trẻ sơ sinh.


    2 Chẩn đoán

    Khởi bệnh cấp tính, rầm rộ, đái buốt dữ dội kèm theo có nhiều mủ do đó người bệnh thường đi khám ngay. Thời gian ủ bệnh ngắn (khoảng 2 - 6 ngày). Dịch niệu đạo số lượng nhiều, nhiều mủ vàng đặc hoặc vàng xanh. Xét nghiệm: nhuộm Gram thấy song cầu khuẩn Gram âm nằm trong tế bao bạch cầu đa nhân, lậu mạn tính vi khuẩn nằm cả trong và ngoài tế bào bạch cầu đa nhân.

    3 Phòng bệnh

    Phát hiện sớm và điều trị kịp thời Không quan hệ tình duc với người bị bệnh Không dùng chung các dụng cu vệ sinh như chậu tắm, khăn... Luôn dùng bao cao su khi quan hệ tình dục.

    http://www.lamsao.com/benh-lau-va-nhung-dieu-can-biet-p214a37836.html

  9. #7
    Thành viên năng động nhiệt tình.
    Ngày tham gia
    18-07-2009
    Giới tính
    Nam
    Đến từ
    Tp.HCM
    Bài viết
    47,922
    Cảm ơn
    2,578
    Được cảm ơn: 11,969 lần
    Triệu chứng và biến chứng của bệnh lậu

    Nếu không được chữa trị, bệnh lậu có thể gây vô sinh nam, nữ, làm tăng tính nhạy cảm với HIV. Nó có thể gây viêm vùng chậu, tăng nguy cơ mang thai ngoài tử cung.


    Nội dung chi tiết

    1 Ở nam giới
    - Xơ hóa và hẹp niệu đạo: biểu hiện bằng tiểu tiện khó, đái rắt. Sờ niệu đạo thấy xơ cứng (nh­ư chiếc đũa), niệu đạo hẹp nhỏ.
    - Áp xe tuyến Littre: d­ương vật s­ưng nề biến dạng.
    - Viêm tiền liệt tuyến: bệnh nhân th­ường có sốt cao, mệt mỏi; tiểu tiện dắt. Khám tiền liệt s­ưng to và đau
    - Viêm túi tinh: th­ường kín đáo, có thể thấy
    Xuất tinh đau buốt
    + Tinh dịch lẫn máu.
    - Viêm mào tinh hoàn + tinh hoàn: thư­ờng bị 1 bên.
    + Mào tinh hoàn to không sờ thấy rãnh giữa mào tinh hoàn và tinh hoàn.
    + Tinh hoàn to đau. + Sốt.
    + Vô sinh

    2 Ở nữ giới
    - Áp xe tuyến Skène, tuyến Bartholin: các tuyến viêm s­ưng đau tạo thành túi mủ vỡ ra ngoài, hoặc xơ hóa thành đám xơ cứng.
    - Viêm cổ tử cung lộ tuyến
    - Viêm niêm mạc tử cung: bệnh nhân có sốt đau bụng d­ưới. Khám thấy tử cung to đau, ra máu bất th­ường ở âm đạo .
    - Viêm phần phụ, áp xe phần phụ 2 bên (gồm vòi trứng, buồng trứng). Sốt 38-390 C. Đau 2 hố chậu, tiến triển mạn tính gây xơ hóa hẹp vòi trứng, dẫn đến vô sinh hoặc chửa ngoài tử cung.
    3 Biến chứng ở cả 2 giới
    - Viêm kết mạc - giác mạc.
    - Vô sinh
    - Viêm tiết niệu ng­ợc dòng, viêm bàng quang, thận và bể thận.
    - Nhiễm lậu lan tỏa:
    + Nhiễm khuẩn huyết do lậu
    + Viêm ngoại tâm mạc, nội tâm mạc
    + Viêm gan
    + Viêm khớp
    + Hội chứng Reiter

    http://www.lamsao.com/trieu-chung-va...214a64335.html

  10. #8
    Thành viên năng động nhiệt tình.
    Ngày tham gia
    18-07-2009
    Giới tính
    Nam
    Đến từ
    Tp.HCM
    Bài viết
    47,922
    Cảm ơn
    2,578
    Được cảm ơn: 11,969 lần
    Bệnh lậu: Cách phòng và điều trị


    Bệnh lậu là một trong năm bệnh hoa liễu cổ điển như giang mai, hạ cam mềm, hột xoài và u hạt bẹn, bệnh lây truyền qua đường tình dục, cấp tính hay mạn tính, do song cầu trùng gây nên, có tên khoa học là Neisseria Gonorrhoeae.



    Nội dung chi tiết


    1 Bệnh lậu cũng có thể làm… chết người!

    Bệnh lậu được biết từ lâu, được các thầy thuốc Hi Lạp quan niệm là bệnh của những người ăn chơi, chìm đắm trong lạc thú của thần vệ nữ. Năm 1300 người ta cho rằng bệnh lậu là bệnh đáy nóng (Chaude Pisse), trong đại chiến thứ nhất bệnh lậu thực sự bùng nổ trở thành đại dịch, đến đại chiến thứ hai và sự ra đời của Pénicilline bệnh lậu chính thức được ngăn chặn và giảm dần đến ngày hôm nay.

    Năm 1897 bệnh được Neisser tìm ra, đó là vi khuẩn có hình hạt cà phê xếp thành từng cặp nên còn gọi là song cầu, có chiều dài 1,6cm, rộng 0,8cm, trên kính hiển vi, vi khuẩn bắt màu Gram âm. Lậu cầu rất yếu khi ra ngoài cơ thể, và chết nhanh ở nhiệt độ thường, ngược lại lậu cầu sống rất mãnh liệt ở môi trường ẩm của cơ thể, cho nên giao hợp vẫn là cách lây bệnh chủ yếu. Tuy nhiên, lậu cầu cũng có thể lây qua vật dụng dùng chung.

    2 Cơ thể học và sinh lý bệnh

    Cơ thể học nam giới: niệu đạo của nam giới tương đối dài hơn nữ giới, vì vậy bệnh lậu ở nam giới biểu hiện rầm rộ hơn, niệu đạo chia làm 2 phần gồm niệu đạo trước và niệu đạo sau, được ngăn cách bởi cơ thắt niệu đạo, có chiều dài từ 14 – 16cm.

    Niệu đạo trước có nhiều hang, nhiều ngõ ngách đó là nơi trú ẩn của lậu cầu.

    Niệu đạo sau càng phức tạp hơn cũng có nhiều ngóc ngách, xuyên qua tuyến tiền liệt, thông với túi tinh, ống dẫn tinh, mao tinh và tinh hoàn.

    Ngoài ra, còn có tuyến Morgagni và tuyến Littre cũng thuận lợi cho lậu cầu sinh sôi và phát triển.

    Cơ thể học nữ giới: niệu đạo của nữ giới tương đối ngắn so với nam giới, khoảng 3cm, vì vậy bệnh lậu ít rầm rộ hơn, có nnhiều tuyến quanh niệu đạo là nơi ẩn náu của vi khuẩn như tuyến Skene, tuyến Bartholine ở 1/3 trước của môi lớn và môi bé.

    Sau khi lậu cầu xâm nhập vào cơ thể thông qua niệu đạo, vi khuẩn có khuynh hướng ưa thích tế bào mô bì trụ ở niệu mạc đường tiết niệu, đưa đến phản ứng viêm tại chỗ, kéo theo bạch cầu đa nhiễm đến để thực bào, từ đó trở thành tổ chức hoại tử trong quá trình viêm, được thoát ra ngoài theo nước tiểu, màu trắng hơi vàng gọi là tiểu ra mủ, vi khuẩn tiếp tục phát triển và đi dọc theo chiều dài của niệu đạo, đi đến đâu gây viêm đến đó gây viêm tiền liệt tuyến, viêm túi tinh, viêm tinh hoàn ở nam giới, viêm ống dẫn trứng, buồng trứng ở nữ giới.

    3 Triệu chứng lâm sàng

    Về triệu chứng lâm sàng lậu ở nam và nữ có khác nhau, do niệu đạo của nam giới dài gấp 5 lần, giai đoạn cấp tính lậu ở nam giới có tính chất rầm rộ, còn ở nữ thì âm thầm dễ bỏ qua, vì thế là nguồn lây nhiễm rất đáng quan tâm. Thời gian nung bệnh trung bình 3 – 5 ngày, nhưng có thể kéo dài 2 – 3 tuần, thời gian nung bệnh càng ngắn thì bệnh càng nặng và thời gian càng dài bệnh nhẹ hơn.




    4 Lậu ở nam:

    Giai đoạn cấp tính:

    Sau thời gian ủ bệnh, bệnh nhân thấy hơi ngứa, nhồn nhột ở đường tiểu, sau vài giờ thì tiết ra chất dịch trong, sau đó đục dần rồi thành mủ, màu vàng hơi trắng. Tiếp theo đó, hai mép miệng sáo đỏ, sưng nề, khi đi tiểu bệnh nhân có cảm giác tiểu nóng rát, tiểu gắt, tiểu bốt, đau như dao cắt, mủ chảy ngày càng nhiều, trường hợp nặng có thể tiểu ra máu.

    Toàn thân giai đoạn này bệnh nhân có thể sốt nhẹ, mệt mỏi, đau mình mẩy.

    Giai đoạn mạn tính:

    Ở giai đoạn cấp tính nếu không được điều trị hoặc điều trị không hiệu quả, triệu chứng trên cũng giảm dần, nhưng vi khuẩn vẫn còn và chuyển sang giai đoạn mạn tính, vi khuẩn từ niệu đạo trước, xâm nhập sâu dần đến các tuyến và niệu dạo sau, để tiếp tục sinh sôi và phát triển, các triệu chứng trên sẽ mất dần chỉ còn lại là tiểu ra giọt đục buổi sáng, và tăng lên khi lao động nặng, thức khuya, uống rượu bia…

    5 Lậu ở nữ:

    Thời gian ủ bệnh thường rất khó xác định.

    Giai đoạn cấp tính:

    Triệu chứng thường âm thầm, không rõ như nam giới. Theo thống kê có khoảng 97% không có triệu chứng, chỉ có 3% còn lại mới có triệu chứng tiểu rát, tiểu buốt, khó chịu.

    Giai đoạn mạn tính:

    Không có triệu chứng gì đặc biệt, thường chỉ có huyết trắng, hoặc có những biểu hiện của biến chứng mà thôi.

    6 Lậu ở trẻ sơ sinh:

    Trẻ bị viêm kết mạc mắt do tiếp xúc với dịch ở âm đạo của mẹ bị nhiễm lậu cầu lúc sanh, từ ngày thứ 2 đến ngày thứ 21, mắt bé bị sưng phù, đỏ và có mủ vàng. Tình trạng này có thể phòng, bằng cách nhỏ mắt bằng Nitrat bạc lúc sanh. Ngoài ra lậu ở đường sinh dục nam và nữ, lậu còn gây bệnh ở các cơ quan khác như lậu ở tim, khớp, cổ họng, amidan, hậu môn, trực tràng…

    7 Điều trị Nguyên tắc điều trị:

    Lậu cầu cứ 15 phút phân chia một lần do đó lan nhanh. Vì vậy cần điều trị sớm.

    Điều trị đúng thuốc – đủ liều.

    Điều trị cả với người tiếp xúc sinh lý.

    Điều trị cho nữ bao giờ cũng dùng thuốc và thời gian gấp đôi liều nam giới.

    Chỉ được kết luận là khỏi bệnh khi cấy hai lần liên tiếp âm tính hoặc không còn tiết dịch niệu đạo với nghiệm pháp kích thích, (cho bệnh nhân lao động nặng, thức khuya, uống rượu bia. Sáng hôm sau lấy dịch xét nghiệm lúc bệnh nhân chưa đi tiểu).

    Điều trị: có thể dùng một trong các thuốc sau:

    Thuốc tiêm: Spectionmycine (Trobicin, Kirin) 2gr đói với nam, 4gr đối với nữ tiêm bắp một liều duy nhất.

    Trường hợp bệnh mạn tính tiêm liên tiếp 2 ngày.

    Ceftriaxime (Claforan) 1gr tiêm bắp duy nhất.

    Ceftriaxone (Rocephine) 250mg tiêm bắp duy nhất.

    Cefoxitine 250mg tiêm bắp liều duy nhất.

    Thuốc uống:

    Unasyn 375mg uống 6 viên liều duy nhất.

    Azithromycin (Zithromax) 250mg X 4 viên uống liều duy nhất.

    Tequin 200mg uống 2 viên (400mg) uống liều duy nhất.

    Điều trị lậu ở trẻ sơ sinh:

    Ceftriaxone 50mg/kg thể trọng, tiêm bắp liều duy nhất, tối da không quá 125mg.

    Đồng thời bôi mắt bằng mỡ Tetracycline 1% cách mỗi giờ một lần/ngày đầu, sau đó 8 giờ 1 lần trong 10 ngày.

    Riêng điều trị lậu đối với trẻ em, nếu trên 45kg thì điều trị như người lớn.

    Nếu dưới 45kg thì dùng ceftriaxone 125mg tiêm bắp liều duy nhất, hoạc spectionmycin 40mg/kg thể trọng tiêm bắp liều duy nhất.

    Theo dõi điều trị:

    Nếu điều trị đúng thuốc, đủ liều thì triệu chứng tiểu gắt, tiểu buốt, tiểu nhiều lần sẽ giảm nhanh sau 24 – 48 giờ, riêng tiểu ra mủ sẽ hết chậm hơn sau 48 – 72 giờ.

    Các triệu chứng chung sẽ biến mất hoàn toàn sau 5 – 7 ngày.

    8 Phòng bệnh

    Cho đến nay phương pháp dùng bao cao su được xem như là phương tiện duy nhất để phòng bệnh lậu, tuy nhiên đó chưa phải là phương pháp đảm bảo tuyệt đối.
    http://www.lamsao.com/benh-lau-cach-...214a64343.html

Thông tin về chủ đề này

Users Browsing this Thread

Có 2 người đang xem chủ đề. (0 thành viên và 2 khách)

Tag của Chủ đề này

Quyền viết bài

  • Bạn Không thể gửi Chủ đề mới
  • Bạn Không thể Gửi trả lời
  • Bạn Không thể Gửi file đính kèm
  • Bạn Không thể Sửa bài viết của mình
  •