1. PP Test nhanh dùng để sàn lọc HIV sớm (tìm kháng thể) nguy cơ sau 6 tuần đến 12 tuần.
2. Combo Ag/Ab tìm kháng nguyên và kháng thể giúp sàn lọc HIV sớm áp dụng sau nguy cơ 4 tuần đến 12 tuần.
Khi dùng sinh phẩm thế hệ 3, 4 test nhanh sàn lọc HIV nếu có phản ứng thì áp dụng chiến lược 3 Eliza. Trong các PP XN test nhanh k có AT giả, chỉ có DT giả. AT giả có nghĩa là khi 4 tuần, 6 tuần, 8 tuần AT thì KQ trắng đen là 12 tuần. Chính vì thề một số người gọi trong thời gian AT từ 4 tuần đến 8 tuần là AT giả, kết luận cuối cùng là 12 tuần mới là chính xác. DT giả thường xảy ra với các bệnh lý sau:
Các bệnh dễ cho xn DT giả:
1. Viêm khớp mãn tính
2. Xơ cứng rải rải (Multiple sclerosis)
3. Lupus
4. Đái đường dạng 1
5. Bệnh addison
6. Viêm đốt sống
7. Viêm gan mãn tính
8. Ung thư ác tính
9. Bệnh thận trầm trọng
10. Bị cúm trong vòng 30 ngày trước khi test
11. Tiêm globulin gamma
12. Mới được truyền máu hoặc cấy ghép tạng
3. 3 PP Eliza áp dụng khi các test nhanh (Combo Ag/Ab và HIV 1/2 Ab có phản ứng với mẫu thử Eliza), Khi mẫu thư phản ứng trong test nhanh, bắt buộc XN 3 PP Eliza để xem có phản ứng với 3 mẫu thử không. Nguyên lý 3 PP Elzia như sau:
3. Chiến lược III (áp dụng cho xét nghiệm chẩn đoán nhiễm HIV): mẫu
được coi là dương tính với chiến lược III khi mẫu đó có phản ứng với cả ba
loại sinh phẩm có nguyên lý hoặc chuẩn bị kháng nguyên khác nhau. Sinh
phẩm thứ nhất (SP1) dùng để sàng lọc có độ nhạy cao, các sinh phẩm tiếp theo
(SP2, SP3) để khẳng định có độ đặc hiệu cao.
3.1. Kết quả xét nghiệm với sinh phẩm thứ nhất không có phản ứng, kết
luận mẫu âm tính với kháng thể HIV.
3.2. Kết quả xét nghiệm với sinh phẩm thứ nhất cho phản ứng (SP1+),
tiếp tục thực hiện xét nghiệm với sinh phẩm thứ hai (SP2).
a) Kết quả xét nghiệm bằng sinh phẩm thứ hai cho phản ứng (SP1+, SP2
+), thì tiếp tục thực hiện với sinh phẩm thứ ba (SP3).
- Kết quả xét nghiệm với sinh phẩm thứ ba cho phản ứng (SP1+, SP2+,
SP3+), kết luận mẫu dương tính với kháng thể HIV và được phép trả lời kết
quả cho người được làm xét nghiệm.
- Kết quả xét nghiệm với sinh phẩm thứ ba không cho phản ứng (SP1+,
SP2+, SP3-), kết luận mẫu không xác định, yêu cầu lấy mẫu xét nghiệm lại
sau 14 ngày.
4
b) Kết quả xét nghiệm bằng sinh phẩm thứ hai không cho phản ứng
(SP1+, SP2-), thực hiện lại xét nghiệm với cả sinh phẩm thứ nhất (SP1) và thứ
hai (SP2) để kiểm tra loại trừ sai sót kỹ thuật.
b1. Nếu kết quả xét nghiệm với cả hai sinh phẩm không cho phản ứng
(SP1-, SP2-), kết luận mẫu âm tính với kháng thể HIV;
b2. Nếu kết quả xét nghiệm (SP1+, SP2+) hoặc (SP1+, SP2-) thực hiện
tiếp xét nghiệm với sinh phẩm thứ ba (SP3), kết quả cả 3 lần làm xét nghiệm
sẽ được phân tích và biện luận như sau:
+ Kết quả xét nghiệm (SP1+, SP2+, SP3+), kết luận mẫu dương tính với
kháng thể HIV.
+ Kết quả xét nghiệm (SP1+, SP2+, SP3-) hoặc (SP1+, SP2-, SP3+), kết
luận mẫu không xác định, yêu cầu lấy mẫu xét nghiệm lại sau 14 ngày.
+ Kết quả xét nghiệm (SP1+, SP2-, SP3-) và người được làm xét nghiệm
không có yếu tố nguy cơ lây nhiễm HIV có thể kết luận là mẫu âm tính với
kháng thể HIV; nếu người được làm xét nghiệm có yếu tố nguy cơ lây nhiễm
HIV, kết luận mẫu không xác định và yêu cầu lấy mẫu xét nghiệm lại sau 14
ngày; trường hợp người được làm xét nghiệm không có yếu tố nguy cơ lây
nhiễm HIV nhưng nếu SP1 là sinh phẩm xét nghiệm phát hiện cả kháng
nguyên và kháng thể trong khi SP2 và SP3 là sinh phẩm chỉ phát hiện kháng
thể thì yêu cầu lấy mẫu xét nghiệm lại sau 14 ngày.
3.3. Trong các trường hợp kết quả xét nghiệm không xác định, đề nghị
lấy máu xét nghiệm lại lần 2 sau 14 ngày và nếu kết quả xét nghiệm sau 14
ngày vẫn tiếp tục không xác định thì phân tích và biện luận như sau:
- Không có sự thay đổi hoặc giảm mức độ phản ứng với cùng loại sinh
phẩm đã được sử dụng trong 2 lần xét nghiệm, kết luận mẫu âm tính với
kháng thể HIV.
- Có sự gia tăng mức độ phản ứng với cùng loại sinh phẩm đã được sử
dụng trong 2 lần xét nghiệm, yêu cầu lấy mẫu làm lại xét nghiệm lần 3 sau 14
ngày
- Các phòng xét nghiệm có thể gửi mẫu không xác định lên phòng xét
nghiệm tham chiếu tuyến trên để làm các xét nghiệm khẳng định khác.
3.4. Trong các trường hợp kết quả xét nghiệm lần 3 tiếp tục không xác
định, kết luận mẫu âm tính với kháng thể HIV. Các biểu hiện các bạn thường gặp trong thời gian mòn mõi chờ chốt KQ ở 12 tuần gọi là Stress, chính Stress là nguyên nhân gây ra TC sau:
Những biểu hiện về hành vi
- Nổi cáu, bực bội hoặc nóng tính
- Sử dụng các chất kích thích như rượu hoặc thuốc lá
- Xáo trộn các sinh hoạt hàng ngày như ăn uống hoặc giấc ngủ của bạn
- Bỏ qua những hành vi thông thường, mất tập trung
- Trở nên vô lý trong những quyết định của mình
- Hay quên hoặc trở nên vụng về
- Luôn vội vàng và hấp tấp
- Ăn quá nhiều hoặc ăn quá ít Những triệu chứng về thể chất
- Đau đầu
- Căng hoặc đau cơ bắp
- Đau bụng
- Đồ mồ hôi
- Cảm thấy chóng mặt
- Rối loạn tiêu hóa
- Khó thở hoặc đau ngực
- Khô miệng
- Ngứa trên cơ thể
- Có vấn đề về tình dục.
Nếu bạn có một số những biệu hiện trên đây, có thể bạn đang trải qua stress cấp tính. Trong trường hợp stress kéo dài, bạn có thể gặp những vấn đề nghiêm trọng hơn về mặt sức khỏe như: đau tim, tăng huyết áp, trầm cảm, bị sốc, bị đau nửa đầu, lo âu, bị hen, suy giảm hệ miễn dịch, đau dạ dày và rối loạn giấc ngủ.
Còn TC thật sự của HIV nằm ở đây:
Nhiễm HIV thành AIDS có thể trãi qua một số giai đoạn như sau:
Giai đoạn 1 là giai đoạn không triệu chứng (hay còn gọi nhiễm HIV cấp, thời kỳ cửa sổ, thời kỳ chuyển đổi huyết thanh). Người nhiễm HIV hầu như không có biểu hiện gì hoặc chỉ có ít những triệu chứng thông thường giống như cảm cúm, nhưng sau đó các triệu chứng này qua đi một cách tự nhiên, nên ngay bản thân người nhiễm cũng không “để ý” tới. Tuy nhiên cũng có trường hợp hạch to toàn thân dai dẳng.
Giai đoạn này thường kéo dài từ 2 tuần đến 3 tháng, đôi khi tới 6 tháng.
Vào đầu giai đoạn này cơ thể chưa kịp sinh ra kháng thể chống lại HIV (gọi tắt là kháng thể HIV) hoặc lượng kháng thể HIV còn ít nên các xét nghiệm thông thường (tìm kháng thể) không phát hiện được và kết quả trả lời là “âm tính”. Do vậy các nhà chuyên môn còn gọi giai đoạn này là “thời kỳ cửa sổ”
Đây là giai đoạn “nguy hiểm”, bởi không phát hiện được người nhiễm HIV qua các xét nghiệm máu thông thường (tìm kháng thể), mặc dù họ thật sự đã bị nhiễm HVI và họ hoàn toàn có thể “vô tình” truyền bệnh cho người khác mà không hề biết.
Giai đoạn 2 là giai đoạn có triệu chứng nhẹ, có thể kéo dài nhiều năm, trung bình là từ 8 – 10 năm và có thể lâu hơn.
Trong giai đoạn này, sức chống đỡ của cơ thể còn mạnh nên số lượng HIV trong máu còn thấp. Người mang HIV hầu như không có triệu chứng gì thể hiện ra bên ngoài và hoàn toàn khoẻ mạnh như người không nhiễm HIV, do vậy họ vẫn sống, làm việc, học tập và sinh hoạt bình thường, tuy nhiên họ có thể làm lây truyền HIV sang người khác.
Ở một số người nhiễm HIV trong giai đoạn này có thể có một số triệu chứng lâm sàng nhẹ, như sút cân mức độ vừa không rõ nguyên nhân (<10% trọng lượng cơ thể); nhiễm trùng hô hấp tái diễn (viêm xoang, viêm amidan, viêm tai giữa, viêm hầu họng); zona (Herpes zoster), trong dân gian thường gọi là giời leo do vi rút gây nên); Viêm khoé miệng; Loét miệng tái diễn; Phát ban dát sẩn, ngứa; Viêm da bã nhờn; Nhiễm nấm móng . . .
Giai đoạn 3 là giai đoạn nhiễm HIV có triệu chứng tiến triển (còn gọi là giai đoạn cận AIDS). Trong giai đoạn này, do hệ miễn dịch bắt đầu bị suy giảm nặng. Ở người nhiễm HIV xuất hiện nhiều triệu chứng bệnh khác nhau như sút cân nặng không rõ nguyên nhân (>10% trọng lượng cơ thể), tiêu chảy không rõ nguyên nhân kéo dài hơn 1 tháng, sốt không rõ nguyên nhân từng đợt hoặc liên tục kéo dài hơn 1 tháng, lao phổi, nhiễm trùng nặng do vi khuẩn (viêm phổi, viêm mủ màng phổi, viêm đa cơ mủ, nhiễm trùng xương khớp, viêm màng não, nhiễm khuẩn huyết), viêm loét miệng hoại từ cấp, viêm lợi hoặc viêm quanh răng, nhiễm nấm Candida miệng tái diễn, bạch sản dạng lông ở miệng, thiếu máu, giảm bạch cầu, đôi khi giảm tiểu cầu không rõ nguyên nhân.
Giai đoạn 4 là giai đoạn nhiễm HIV có triệu chứng lâm sàng nặng (còn gọi là giai đoạn AIDS). Ở người nhiễm xuất hiện nhiều triệu chứng bệnh nặng như hội chứng suy mòn do HIV (sút cân >10% trọng lượng cơ thể, kèm theo sốt kéo dài trên 1 tháng hoặc tiêu chảy kéo dài trên 1 tháng không rõ nguyên nhân), viêm phổi do Pneumocystis (PCP, viêm phổi do nấm), nhiễm Herpes simplex (một loại vi rút) mạn tính (ở môi miệng, cơ quan sinh dục, quanh hậu môn kéo dài hơn 1 tháng, hoặc bất cứ đâu trong nội tạng., nhiễm nấm Candida thực quản (hoặc nhiễm candida ở khí quản, phế quản hoặc phổi, lao ngoài phổi, Sarcoma Kaposi (một loại ung thư), bệnh do nhiễm Toxoplasma (một loại ký sinh đơn bào) ở hệ thần kinh trung ương, bệnh do Cryptococcus (một loại nấm) ngoài phổi bao gồm viêm màng não, bệnh do Mycobacteria avium complex (MAC) lan toả, bệnh lý não chất trắng đa ổ tiến triển, tiêu chảy mạn tính, bệnh do nấm lan toả, nhiễm trùng huyết tái diễn, U lympho ở não hoặc u lympho non – Hodgkin tế bào B, ung thư cổ tử cung, bệnh do leishmania (một loại trùng roi) lan toả không điển hình, bệnh lý thận do HIV, viêm cơ tim do HIV.
Dấu hiệu người nhiễm HIV đã chuyển sang giai đoạn AIDS:
Nhiễm HIV được coi như đã chuyển sang giai đoạn AIDS khi ở người nhiễm HIV xuất hiện ít nhất 02 triệu chứng chính cộng 01 triệu chứng phụ sau:
Nhóm triệu chứng chính sụt cân trên 10% trọng lượng cơ thể, tiêu chảy kéo dài trên 1 tháng, sốt kéo dài trên 1 tháng.
Nhóm triệu chứng phụ ho dai dẳng trên một tháng, nhiễm nấm Candida ở hầu họng, ban đỏ, ngứa da toàn thân, ban đỏ ngứa toàn thân, Herpes (nổi mụn rộp) Zona (giời leo) tái phát, nỗi hạch ở nhiều nơi trên cơ thể . . .
http://syt.dongthap.gov.vn/sitathongtinchamsocsuckhoe/timhieuhiv